Zingiber mawangense

Zingiber mawangense
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Monocots
(không phân hạng)Commelinids
Bộ (ordo)Zingiberales
Họ (familia)Zingiberaceae
Phân họ (subfamilia)Zingiberoideae
Tông (tribus)Zingibereae
Chi (genus)Zingiber
Loài (species)Z. mawangense
Danh pháp hai phần
Zingiber mawangense
Noor Ain & Meekiong, 2015[2]

Zingiber mawangense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được C. A. Noor Ain và Meekiong Kalu miêu tả khoa học đầu tiên năm 2015.[2]

Mẫu định danh

[sửa | sửa mã nguồn]

Mẫu định danh: Noor Ain C.A., Angela George, Mas Izzaty M. & Meekiong K. NNZ 040; thu thập tháng 10 năm 2013 ở tọa độ 1°13′19″B 110°29′47″Đ / 1,22194°B 110,49639°Đ / 1.22194; 110.49639, trong hào rãnh gần suối, rừng khộp hỗn hợp, Kampung Tema Mawang, Tebakang, Serian, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Cục Lâm nghiệp bang Sarawak, Kuching (SAR), mẫu paratype NNZ 042 lưu giữ tại phòng mẫu cây Đại học Malaysia Sarawak (HUMS).[2][3]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh mawangense lấy theo địa phương nơi thu mẫu định danh là Matang.[2]

Phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài bản địa đảo Borneo, được tìm thấy ở tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia.[1][2][4] Loài cây thảo này được tìm thấy trong các rừng khộp (Dipterocarpaceae) hỗn hợp.[1][2]

Cây thảo cao 50–80 cm. Thân rễ màu kem tới ánh trắng với rễ bất định. Lá sắp xếp so le, 5-7 đôi, các lá phía dưới nhỏ, hình trứng, 3,2 × 2,1 cm. Bẹ lá màu xanh lục, nhẵn nhụi. Phiến lá hình trứng tới hình mác, 20–36 × 10-10,6 cm, mép nguyên, đỉnh nhọn thon, đáy thon nhỏ dần, hơi uốn nếp, mặt trên màu xanh lục sẫm và nhẵn nhụi, mặt dưới màu xanh lục xỉn ánh bạc, có sáp. Cuống lá dạng gối, dài 5–6 mm, màu từ xanh lục nhạt tới xanh lục-vàng. Lưỡi bẹ dài 4–5 mm, 2 thùy, mép nguyên, màu xanh lục. Cuống cụm hoa 9,5 × 1,4 cm, màu vàng ánh đỏ và đỏ tươi về phía đáy. Cành hoa bông thóc hình con suốt, xếp lợp, 22 × 4,1 cm, màu vàng tới da cam. Lá bắc 4-4,8 × 3,7-4,5 cm, đỉnh nhọn thon, thuôn tròn, màu vàngđôi khi viền hồng về phía đáy. Lá bắc hoa 2-3,5 × 0,5-1,6 cm, màu vàng nhạt trong mờ tới màu kem hay trắng, đỉnh nhọn thon. Đài hoa 1,7-2,1 × 1,1-1,2 cm, màu ánh trắng trong mờ. Ống tràng hoa 3,2-4,9 × 0,2-0,3 cm, màu vàng và kem về phía đáy. Thùy tràng lưng 23-41 × 6–9 mm, màu vàng hay kem trong mờ, đỉnh nhọn thon, cong về phía sau; các thùy tràng bên 21-30 × 3–6 mm, trong mờ, màu vàng hay kem. Cánh môi 1,8-2,8 × 0,6-1,1 cm, mép hơi nhăn; thùy giữa 6-16 × 7–11 mm; các thùy bên 12-17 × 4–6 mm. Nhị và phần phụ 17-24 × 4 mm. Nhị 10-17 × 4–5 mm, màu nâu sẫm; chỉ nhị 7–10 mm. Bầu nhụy gần hình cầu, có lông lụa, 2-3 × 1–4 mm. Nhụy lép 5-7 × 1 mm..[2]

Tương tự như Z. argenteumZ. martinii về bề ngoài; cụ thể là mặt dưới phiến lá màu ánh bạc như ở Z. argenteum và cụm hoa hình con suốt thuôn dài như ở Z. martinii; nhưng khác với Z. argenteum ở chỗ cuống lá ngắn hơn (gần như không cuống) cùng phiến lá rộng hơn và khác với Z. martinii ở chỗ màu của lá bắc là vàng sẫm nổi bật và bóng với thùy tràng lưng cong về phía sau.[2]

Có giá trị làm cây cảnh cao với mặt dưới lá màu ánh bạc và mặt trên xanh lục sẫm, với nhiều cụm hoa (tới 15) mọc cùng một lúc.[2]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tư liệu liên quan tới Zingiber mawangense tại Wikimedia Commons
  • Dữ liệu liên quan tới Zingiber mawangense tại Wikispecies
  • Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). "Zingiber matangense". International Plant Names Index.
  1. ^ a b c Olander S. B. (2019). "Zingiber mawangense". The IUCN Red List of Threatened Species. Quyển 2019. tr. e.T125856413A125856418. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-2.RLTS.T125856413A125856418.en. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f g h i C. A. Noor Ain, C. S. Tawan & K. Meekiong, 2015. Two new Zingiber species frorn Sarawak, Malaysia. Folia Malaysiana 16(1): 23-30. Xem trang 24-27.
  3. ^ Zingiber mawangense trong Zingiberaceae Resource Centre. Tra cứu ngày 29-5-2021.
  4. ^ Zingiber mawangense trong Plants of the World Online. Tra cứu ngày 29-5-2021.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới như thế nào?
Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới như thế nào?
Chưa bao giờ trong lịch sử có nền kinh tế của một quốc gia hồi phục nhanh như vậy sau chiến tranh và trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Oxytocin - Hormone của tình yêu, lòng tốt và sự tin tưởng
Oxytocin - Hormone của tình yêu, lòng tốt và sự tin tưởng
Trong bài viết này, mình muốn giới thiệu đến các bạn một hormone đại diện cho thứ cảm xúc
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Làm thế nào các nền tảng công nghệ có thể đạt được và tăng giá trị của nó trong dài hạn?
Tổng hợp các lãnh địa được sử dụng trong Jujutsu Kaisen
Tổng hợp các lãnh địa được sử dụng trong Jujutsu Kaisen
Bành trướng lãnh địa được xác nhận khi người thi triển hô "Bành trướng lãnh địa" những cá nhân không làm vậy đều sẽ được coi là "Giản dị lãnh địa"