Zingiber roseum

Zingiber roseum
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Monocots
(không phân hạng)Commelinids
Bộ (ordo)Zingiberales
Họ (familia)Zingiberaceae
Phân họ (subfamilia)Zingiberoideae
Tông (tribus)Zingibereae
Chi (genus)Zingiber
Loài (species)Z. roseum
Danh pháp hai phần
Zingiber roseum
(Roxb.) Roscoe, 1807[1]
Danh pháp đồng nghĩa
Amomum roseum Roxb., 1800 không Benth. & Hook.f., 1883[2][3]

Zingiber roseum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1800Ghi chú dưới danh pháp Amomum roseum.[2][3] Năm 1807, William Roscoe chuyển nó sang chi Zingiber với dẫn chiếu tới hình tại tab. 126 trong Roxburgh (1800) - là hình minh họa trong bài này.[1][4]

Tên gọi thông thường

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên gọi trong tiếng Telingas (từ để gọi khu vực miền đông Ấn Độ thời kỳ thuộc Anh) là buma catchicay.[2] Tên gọi trong tiếng Trung là 红柄姜 (hồng bính khương) nghĩa là gừng cuống đỏ.[5]

Mẫu định danh

[sửa | sửa mã nguồn]

Zingiberaceae Resource Centre (ZRC) hiện tại chưa ghi nhận mẫu vật hoặc hình ảnh nào là holotype/lectotype.[6] Kai Larsen (1996)[7] ghi vắn tắt như sau: roseum Rosc., Trans. Linn. Soc. 8 (1807) 348. Type: ? Roxburgh. India (to be selected at K).

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh roseum (giống đực: roseus, giống cái rosea) là tiếng Latinh, nghĩa là màu hồng; ở đây là để nói tới các lá bắc của cành hoa bông thóc có màu đỏ nhạt hay màu ánh đỏ.[2]

Phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài này có trong khu vực từ miền đông và miền nam Ấn Độ qua Bangladesh, Myanmar tới Thái Lan và tây nam Trung Quốc.[5][6][8]

ZRC cũng ghi nhận các mẫu thu thập tại Việt NamCampuchia.[6] Cụ thể, tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp (MNHN) hiện tại lưu các mẫu sau: Balansa B. 4215 (MNHN-P-P00289173, MNHN-P-P00289174), Balansa B. 4216 (MNHN-P-P00289175), Pételot P.A. 7513 (MNHN-P-P00289178) thu thập tại núi Ba Vì, Evrard F. 1195 (MNHN-P-P00289176) thu thập tại thác Pongour gần Djiring (nay là Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) và Müller R. 486 (MNHN-P-P00289177) thu thập tại Phnom San-Kos (= Phnom Samkos), núi tại tỉnh Pursat, miền tây Campuchia.[9] Lưu ý rằng các mẫu Balansa B. 4215Balansa B. 4216 thu thập tương ứng vào tháng 11 năm 1887 và tháng 9 năm 1886 ban đầu được định danh là Zingiber rubens,[10][11][12] nhưng cho tới nay chưa thấy tài liệu nào ghi nhận Z. roseum có ở Việt Nam.

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Z. roseum thuộc về tổ Cryptanthium.[13][14][15]

Cây thảo thân rễ, cao 1,2–1,5 m. Thân rễ vỏ màu vàng nhạt, rễ có củ. Thân lá thon búp măng, thanh mảnh, nhẵn nhụi, màu xanh lục ở trên và màu nâu ánh đỏ ở dưới, có lông tơ. Phiến lá thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, 30–40 × 3–5 cm, đỉnh nhọn thon, đáy hình nêm, mép gợn sóng nhiều hay ít, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông tơ; cuống lá từ không có tới rất ngắn dạng gối, có lông tơ, phủ nhiều chấm đỏ; lưỡi bẹ 2 thùy, đỉnh gần thuôn tròn, dài 2-3,5 cm, dạng màng. Cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục; cành hoa bông thóc hình elipxoit, dài 3–6 cm, kết rất đặc, màu đỏ ánh hồng; cuống cụm hoa rất ngắn. Lá bắc màu đỏ nhạt, dài 3,5–4,5 cm, đỡ 1 hoa, lá bắc ngoài hình trứng rộng, lá bắc trong hình trứng ngược-hình mác ngược. Lá bắc con hình mác, dài 3–3,2 cm, rộng 0,9–1 cm, dạng màng màu trắng. Hoa màu trắng; đài hoa hình ống, dài ~1,5 cm, dạng màng màu trắng; ống tràng hoa màu trắng, dài ~2 cm; các thùy tràng hoa màu đỏ nhạt, hình mác; cánh môi màu trắng ánh vàng, hình trứng đến thuôn dài-hình nêm, thùy giữa 2,4–2,6 × 1–1,2 cm, ngắn hơn các thùy tràng hoa, mép uốn ngược, nhăn, đỉnh khía răng cưa; các thùy bên (nhị lép bên) màu vàng, hình tròn, rất nhỏ. Nhị hình vòng cung, dài 2–2,5 cm và đường kính 2–3 mm, màu vàng; chỉ nhị dài 2 mm, màu trắng; các thùy bao phấn hình elipxoit, song song, dài 1-1,1 cm và đường kính 2–3 mm, màu trắng ánh vàng, không cựa; mào hẹp, dài và cong, dài 9–10 mm, màu vàng sẫm. Bầu nhụy gần thuôn dài, dài 6–7 mm và đường kính 3–4 mm, màu trắng, có lông tơ, 3 ngăn, noãn đính trụ với 3 hàng noãn ở mỗi ngăn; vòi nhụy dài 3,3–3,5 cm, đầu nhụy hình phễu, dài khoảng 2 mm, hình chén nông, màu trắng. Quả nang gần thuôn dài, 3,4–3,6 × 2,4–2,6 cm, màu đỏ.[2][5][16]

Ghi chú.^ Xem chi tiết về năm in ấn các phần của quyển II tại đây. Năm in tại trang bìa là 1798, nhưng thực tế Quyển II được in thành 4 phần như sau: Phần 5: Trang 1-16, tab. 101-125 (5/1799). Phần 6: trang 17-28, tab. 126-150 (5/1800). Phần 7: Trang 29-40, tab. 151-175 (4/1802). Phần 8: Trang 41-56, tab. 176-200 (5/1805).

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tư liệu liên quan tới Zingiber roseum tại Wikimedia Commons
  • Dữ liệu liên quan tới Zingiber roseum tại Wikispecies
  • Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). “Zingiber roseum”. International Plant Names Index. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  1. ^ a b Roscoe W., 1807. New arrangement of the plants of the Monandrian class usually called Scitamineae: Zingiber roseum. Transactions of the Linnean Society of London 8: 330-357. Xem trang 348.
  2. ^ a b c d e Mô tả: Roxburgh W., 1800. Amomum roseum. Plants of the coast of Coromandel 2: 15-16.
  3. ^ a b Hình minh họa: Roxburgh W., 1800. Amomum roseum. Plants of the coast of Coromandel 2: tab. 126.
  4. ^ The Plant List (2010). Zingiber roseum. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  5. ^ a b c Zingiber roseum trong Flora of China. Tra cứu ngày 14-6-2021.
  6. ^ a b c Zingiber roseum trong Zingiberaceae Resource Centre. Tra cứu ngày 14-6-2021.
  7. ^ Kai Larsen, 1996. A preliminary checklist of the Zingiberaceae of Thailand. Thai Forest Bulletin (Botany) 24: 35-49. Xem trang 49.
  8. ^ Zingiber roseum trong Plants of the World Online. Tra cứu ngày 14-6-2021.
  9. ^ Zingiber tại MNHN. Tra cứu ngày 14-6-2021.
  10. ^ MNHN-P-P00289173
  11. ^ MNHN-P-P00289174
  12. ^ MNHN-P-P00289175
  13. ^ Baker J. G., 1892. Order CXLIX. Scitamineae: Zingiber roseum trong Hooker J. D., 1892. The Flora of British India 6(18): 244.
  14. ^ Schumann K. M., 1904. IV. 46. Zingiberaceae: Zingiber roseum trong Engler A., 1904. Das Pflanzenreich Heft 20: 184.
  15. ^ Mu Mu Aung, 2016. Taxonomic study of the genus Zingiber Mill. (Zingiberaceae) in Myanmar. Luận án tiến sĩ, Đại học Kochi. Xem bảng 2, trang 109.
  16. ^ Mu Mu Aung, 2016. Taxonomic study of the genus Zingiber Mill. (Zingiberaceae) in Myanmar. Luận án tiến sĩ, Đại học Kochi. Xem trang 74-75.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Gu âm nhạc của chúng ta được định hình từ khi nào?
Gu âm nhạc của chúng ta được định hình từ khi nào?
Bạn càng tập trung vào cảm giác của mình khi nghe một bài hát thì mối liên hệ cảm xúc giữa bạn với âm nhạc càng mạnh mẽ.
4 thương hiệu pizza ngon khó cưỡng
4 thương hiệu pizza ngon khó cưỡng
Bạn có biết bạn sẽ “nạp thêm” trung bình là 250 kcal khi ăn một chiếc pizza không? Đằng nào cũng “nạp thêm” từng đó kcal thì 4 thương hiệu pizza mà MoMo đề xuất dưới đây sẽ không làm bạn phải thất vọng. Cùng điểm qua 4 thương hiệu pizza mà MoMo “chọn mặt gửi vàng” cho bạn nhé!
Một vài nét về bố đường quốc dân Nanami Kento - Jujutsu Kaisen
Một vài nét về bố đường quốc dân Nanami Kento - Jujutsu Kaisen
Lúc bạn nhận ra người khác đi làm vì đam mê là khi trên tay họ là số tiền trị giá hơn cả trăm triệu thì Sugar Daddy Nanami là một minh chứng khi bên ngoài trầm ổn, trưởng thành
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Làm thế nào các nền tảng công nghệ có thể đạt được và tăng giá trị của nó trong dài hạn?