AKB48 Group

AKB48 Group
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quán Nhật Bản: AKB48 - NMB48 - NGT48 - SKE48 - HKT48 - STU48
 Indonesia: JKT48
 Thái Lan: BNK48 - CGM48
 Philippines: MNL48
 Đài Loan: AKB48 Team TP (trước đó là TPE48)
 Trung Quốc: AKB48 Team SH (thay thế cho SNH48)
 Hàn Quốc: Iz*One (dừng hoạt động)
 Việt Nam: SGO48 (dừng hoạt động)
 Ấn Độ: DEL48 - MUB48 (dừng hoạt động)
 Malaysia: KLP48
Thể loại
Năm hoạt động2008–nay
Thành viênNhững nhóm hiện tại
Cựu thành viênNhững nhóm cũ

AKB48 Group (Nhật: エーケービーフォーティーエイトグループ Hepburn: Ēkēbī Fōtīeito Gurūpu?), hay những nhóm chị em của AKB48, AKB Group (エーケービーグループ Ēkēbī Gurūpu?), 48 Group (フォーティーエイトグループ Fōtīeito Gurūpu?), AKB48 Project (AKB48プロジェクト Ēkēbī Fōtīeito Purojekuto?), AKB48 Family (エーケービーフォーティーエイトファミリー Ēkēbī Fōtīeito Famirī?), còn được viết ngắn gọn thành AKB48G, AKBG, 48G, 48, nói đến những nhóm nhạc chị em của nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản AKB48. Dựa trên cùng một hình mẫu: "Thần tượng bạn có thể gặp mặt" ("Idols you can meet"), hiện có 5 nhóm chị em hoạt động tại Nhật và 6 nhóm khác hoạt động tại nhiều thành phố lớn trên khắp châu Á, từ Ấn Độ đến Indonesia. Những nhóm nhạc chị em tại Nhật Bản không chỉ phát hành những đĩa đơn độc lập mà còn tham gia vào nhiều hoạt động & các sự kiện quan trọng thường niên của AKB48 như các đợt Tổng tuyển cử. Các nhóm chị em ở ngoài Nhật Bản phát hành đĩa đơn bằng ngôn ngữ bản địa của họ.[1][2] Trong giai đoạn mới thành lập, những nhóm này thường được hỗ trợ bởi các thành viên kiêm nhiệm như Matsui Jurina và Watanabe Miyuki.[1]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm nhạc chị em đầu tiên của AKB48 là SKE48 ra mắt năm 2008 tại Sakae, Nagoya.[3][4] Sau đó SDN48, NMB48 (Osaka–2010) & HKT48 (Fukuoka–2011) lần lượt ra mắt[5][6][7]. Năm 2011, AKB48 công bố thành lập nhóm chị em đầu tiên bên ngoài Nhật Bản JKT48 tại Jakarta, Indonesia[8], sau đó là SNH48 tại Thượng Hải, Trung Quốc vào năm 2012[9], tuy nhiên đã tách ra khỏi PJ48 vào 2016 và hiện đang hoạt động độc lập[10], về sau AKB48 thành lập AKB48 China vào 12/10/2016, ra mắt AKB48 Team SH vào năm 2018[11].

Ngoài các nhóm chị em, AKB48 cũng có "đối thủ chính thức" là nhóm Sakamichi Series cùng chung nhà sản xuất Akimoto Yasushi thành lập vào 2011, gồm 4 nhóm: Nogizaka46 và các nhóm chị em Sakurazaka46, Yoshimotozaka46 và Hinatazaka46 sau khi Sony Music Japan xây dựng tòa nhà văn phòng chính.[12]

Năm 2015, tại concert AKB48 Request Hour Setlist Best 1035, AKS công bố thành lập NGT48Niigata với Kitahara Rie làm đội trưởng và Kashiwagi Yuki kiêm nhiệm[13]. STU48 ra đời năm 2017 tại vùng Setouchi, với rạp hát trong một con tàu và đồng sở hữu bởi hội đồng du lịch vùng Setouchi.[14]

Việc thành lập TPE48 được thông báo vào ngày 10/10/2011 trên blog chính thức của AKB48[15]. Vào thời điểm đó, AKS hợp tác với chi nhánh Yoshimoto Kogyo Đài Bắc và dự kiến ​​bắt đầu việc thử giọng vào năm 2012. Tuy nhiên, 2 bên đã không đạt được đồng thuận trong công tác chuẩn bị nên đã ngừng hợp tác nửa cuối năm 2012.

Vào tháng 3/2016, AKS thông báo thành lập 3 nhóm chị em khác ngoài Nhật Bản là BNK48 tại Bangkok, Thái Lan; MNL48 tại Manila, PhilippinesTPE48 tại Đài Bắc, Đài Loan.[16] Vào ngày 30/7/2018, AKS hủy bỏ hợp đồng liên doanh và giấy phép với công ty quản lý TPE48 và tạo nên AKB48 Team TP[17]. CGM48 được đặt theo tên thành phố Chiang Mai, Thái Lan là nhóm chị em trong nước của BNK48 được công bố tại Chiang Mai vào ngày 2 tháng 6 năm 2019.[18]

Vào ngày 27/12/2017, Yokoyama Yui - tổng quản kiêm cựu đội trưởng Team A thông báo thành lập MUM48 tại Mumbai, Ấn Độ vào năm 2018 thông qua buổi phát sóng trực tiếp tại Showroom[19]. Vào ngày 19/6/2019, MUM48 đổi tên thành MUB48 và công bô thành lập DEL48 tại Delhi[20]. Vào tháng 10/2020, hầu hết các thành viên đã mở tài khoản Instagram cá nhân, dẫn đến tin đồn tan rã. Deepak Nandal, nhà sản xuất DEL48 xác nhận YKBK48 giải thể nhóm và sẽ chấm dứt hợp đồng các thành viên vào cuối tháng 10 do đại dịch COVID-19.[21] Đến ngày 13/7/2022, YKBK48 thông báo đóng cửa hoạt động của mình[22].

Ngày 21/6/2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, AKS có buổi công bố thông tin về nhóm nhạc nhỏ mới sẽ hoạt động tại thị trường Việt Nam lấy tên là SGO48, tuyển chọn thành viên bắt đầu từ tháng 7.[23] Nhóm ra mắt vào ngày 17/11 cùng năm.[24] Tuy nhiên vào ngày 5/12/2021, nhóm thông báo sẽ chính thức dừng hoạt động do đại dịch COVID-19, đồng thời cho biết sự kiện kỷ niệm 3 năm thành lập nhóm vào ngày 22/12 sẽ là hoạt động cuối cùng của nhóm[25].

Vào ngày 1/1/2024, AKB48G thông báo thành lập nhóm KLP48 đặt tại Kuala Lumpur, Malaysia.[26] Nhóm ra mắt thế hệ đầu tiên vào tháng 7 cùng năm.[27]

Hợp tác cùng Produce 48 và Iz*One ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào 15/6/2018, AKB48 cùng 5 nhóm chị em tại Nhật Bản đưa 39 thành viên tham gia chương trình thực tế sống còn Produce 48 của đài Mnet để cạnh tranh với 57 thực tập sinh từ chủ nhà Hàn Quốc cho 12 vị trí của nhóm nhạc sẽ hoạt động tại Hàn Quốc và Nhật Bản trong 2,5 năm.[28] Trước đó Mnet xác nhận nhóm sẽ tham gia Produce 48 tại Mnet Asian Music Awards 2017[29]

Iz*One tại lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 33 vào năm 2019. Từ trái sang phải: Kang Hye-won, Lee Chae-yeon, Kim Min-ju, Hitomi Honda, Kwon Eun-bi, Jang Won-young, Miyawaki Sakura, Nako Yabuki, Jo Yu-ri, Kim Chae-won, Choi Ye-na, An Yu-jin

Vào 31/8/2018, tập cuối cùng của show cùng tên nhóm- Iz*One và đội hình 12 cô gái đã ra đời, trong đó Honda Hitomi của AKB48 cùng Yabuki Nako với Miyawaki Sakura của HKT48 là 3 thành viên từ Nhật Bản của nhóm[30]. Nhóm có màn ra mắt thành công khi vé cho buổi showcase ra mắt tại Hội trường Olympic bán hết trong vài phút.[31] Đĩa đơn mở rộng COLOR*IZ của họ được phát hành vào ngày 29 tháng 10 năm 2018 và bán được hơn 34.000 bản theo thống kê của Hanteo Chart, lập kỷ lục mới về số lượng album bán được nhiều nhất trong ngày đầu tiên ra mắt của một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc. Video âm nhạc "La Vie en Rose" đã đạt được hơn 4,5 triệu lượt xem trong vòng 24 giờ sau khi phát hành trên YouTube, trở thành video âm nhạc đầu tay được xem nhiều nhất của một nghệ sĩ Hàn Quốc trong 24 giờ.[32] Kể từ khi ra mắt, nhóm đã giành được nhiều giải thưởng, bao gồm Nhóm nhạc tân binh xuất sắc nhất năm tại Mnet Asian Music Awards 2018[33].

Nhóm dự kiến ​​phát hành album phòng thu đầu tiên Bloom*Iz vào ngày 11/11/2019. Tuy nhiên, việc phát hành đã bị hoãn lại do việc điều tra gian lận phiếu bầu của Mnet.[34] Do đó, các hoạt động quảng bá của nhóm cũng bị hủy bỏ hoặc tạm ngừng, trong đó có phim điện ảnh Eyes on Me: The Movie (IZ*ONE: Ngước nhìn tôi). Ngày 28/11, các hoạt động tại Nhật Bản của nhóm cũng chấm dứt, trong đó có chương trình phát thanh của các thành viên Miyawaki Sakura và Honda Hitomi.[35]

Ngày 30/12, Mnet và CJ ENM thông báo cả Iz*One và X1 sẽ thảo luận về kế hoạch hoạt động của 2 nhóm, và các thí sinh bị loại một cách bất công sẽ được bồi thường. Cả 2 nhóm đều bị loại khỏi danh sách đề cử tại lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 34. Sau đó công ty quản lý của Iz*One đồng ý nhóm sẽ tiếp tục hoạt động[36].

Tháng 1/2021, có nguồn tin CJ ENM đang thảo luận với công ty quản lý của các thành viên về khả năng gia hạn hợp đồng.[37] Tuy nhiên vào giữa tháng 3, Mnet xác nhận IZ*ONE sẽ chính thức tan rã vào tháng 4 sau khi hết hạn hợp đồng,[38] các thành viên sẽ trở về công ty quản lý của mình.[39]

Những nhóm hiện tại

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách các nhóm nhạc chị em của AKB48 hoạt động tại Nhật Bản
Tên nhóm Màu chính thức Công ty quản lý Công ty mẹ Năm hoạt động Các team
(nếu chia)
Địa điểm Chú thích
AKB48 Hồng DH Co., Ltd.[40] 2005 – nay Team A, Team K, Team B, Team 4, Team 8, Thực tập sinh Akihabara, Tokyo Nhóm chính
SKE48 Cam Zest, Inc.[41]
  • 80% Keyholder, Inc.
  • 20% Vernalossom, Co., Ltd[42]
2008 – nay Team S, Team KII, Team E, Thực tập sinh Sakae, Nagoya Nhóm chị em đầu tiên
NMB48 Da báo Showtitle Kyoraku Yoshimoto[43] 2010 – nay Team N, Team M, Team BII, Thực tập sinh Namba, Osaka Nhóm chị em đầu tiên không do AKS quản lý
HKT48 Đen Mercury, Inc. Sproot, Co., Ltd.[44] Cổ đông: 2011 – nay Team H, Team KIV, Team TII, Thực tập sinh Hakata, Fukuoka Có nhà hát không cố định
NGT48 Trắng - Đỏ Flora Co., Ltd. 2015 – nay Thế hệ thứ nhất, Thế hệ Draft thứ 3, Thế hệ thứ 2, Thực tập sinh Niigata, Niigata Team Nlll +Team G giải thể, chuyển sang thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ 2
STU48 Xanh trời - Trắng STU Setouchi Brand Corporation[45] 2017 – nay Thế hệ thứ nhất, Thế hệ Draft thứ 3, Thực tập sinh Vùng Setouchi Từng có rạp hát trong một con tàu, đồng sở hữu bởi hội đồng du lịch vùng Setouchi
Danh sách các nhóm nhạc chị em của AKB48 hoạt động bên ngoài Nhật Bản
Quốc gia Địa điểm Tên nhóm Màu chính thức Công ty quản lý Năm hoạt động Các team
(nếu chia)
Chú thích
 Indonesia Jakarta JKT48 Đỏ IDN Media / JKT48 Operation Team (PT Indonesia Musik Nusantara) 2011–nay JKT48 Nhóm chị em bên ngoài Nhật Bản đầu tiên. Nhóm chị em tại Indonesia
 Thái Lan Băng Cốc BNK48 Tím nhạt Independent Artists Management (iAM)- trước là BNK48 Office 2017–nay Team BIII, Team NV, Thực tập sinh Nhóm chị em đầu tiên tại Thái Lan
Chiang Mai CGM48 Bạc hà 2019–nay Team C, Thực tập sinh Nhóm chị em thứ 2 tại Thái Lan. Nhóm chị em đầu tiên của BNK48
 Philippines Manila MNL48 Xanh Hallohallo Entertainment Inc. 2018–nay Team MII, Team NIV, Team L, Team Unknown, Thực tập sinh Nhóm chị em tại Philippines, là nhóm duy nhất hoạt động với 48 thành viên. Nhóm loại thành viên nếu họ không được xếp hạng trong cuộc Tổng tuyển cử
 Trung Quốc Thượng Hải AKB48 Team SH Hồng Trắng Shanghai Shangyue Culture Development Co., Ltd. Team SH, Thực tập sinh Một nhánh nhỏ của AKB48 tại Thượng Hải. Đây cũng là nhóm chị em tại Trung Quốc thay thế SNH48 (đã tách khỏi AKB48 Group).[46]
 Đài Loan Đài Bắc AKB48 Team TP Vàng xoài Good Talk Unit Tic Tac Toe, Unit Peek A Boo, Thực tập sinh Một nhánh nhỏ của AKB48 tại Đài Loan từ ngày 30/7/2018 (tên cũ: TPE48)
 Malaysia Kuala Lumpur KLP48 Xanh lá cây 48 Entertainment SDN. BHD. 2024–nay Sẽ hoạt động từ 2024

Những nhóm cũ

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách những nhóm nhạc chị em cũ của AKB48 hoạt động tại Nhật Bản
Tên nhóm Năm hoạt động
cùng AKB48 Group
Team
(nếu chia)
Địa điểm Chú thích
SDN48 2009–2012 Thế hệ thứ nhất, Thế hệ thứ 2 (sau đó là Thế hệ thứ 2+3) Akihabara, Tokyo, Nhật Bản Saturday Night 48, concept idol người lớn, tan rã năm 2012
Danh sách những nhóm nhạc chị em cũ của AKB48 hoạt động ngoài Nhật Bản
Tên nhóm Năm hoạt động
cùng AKB48 Group
Team
(nếu chia)
Địa điểm Chú thích
SNH48
  • 2012–2016 (cùng AKB48 Group)
  • 2016-nay (hoạt động độc lập)
Team SII, Team NII, Team HII, Team X, Team LXS, Team XII, Team XII, Team FT, Thực tập sinh Thượng Hải, Trung Quốc Tuyên bố độc lập khỏi AKB48 vào năm 2016, vẫn đang hoạt động
DEL48 2019 - 2020 Thực tập sinh Delhi, Ấn Độ Dừng hoạt động do dịch Covid-19
MUB48 Mumbai, Ấn Độ Tiền thân là MUM48, dừng hoạt động do dịch Covid-19
SGO48 2018–2021 Thực tập sinh Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) Dừng hoạt động do dịch Covid-19
Danh sách những nhóm nhạc hợp tác cũ của AKB48 hoạt động ngoài Nhật Bản
Tên nhóm Năm hoạt động
cùng AKB48 Group
Địa điểm Chú thích
IZ*ONE 2018 - 2021 Seoul, Hàn Quốc Nhóm nhạc dự án từ chương trình thực tế sống còn Produce 48, tan rã tháng 4/2021.[39]

Dòng thời gian

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản đồ phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]
AKB48 Group trên bản đồ Nhật Bản
AKB48 (2005–nay) SDN48 (2009–2012)
AKB48
(2005–nay)
SDN48
(2009–2012)
SKE48 (2008–nay)
SKE48
(2008–nay)
NMB48 (2010–nay)
NMB48
(2010–nay)
HKT48 (2011–nay)
HKT48
(2011–nay)
NGT48 (2015–nay)
NGT48
(2015–nay)
STU48 (2017–nay)
STU48
(2017–nay)
Bản đồ phân bố địa lý các nhóm nhạc chị em của AKB48 tại Nhật Bản.
AKB48 Group trên bản đồ Châu Á
JKT48 (2011–nay)
JKT48
(2011–nay)
AKB48 Team SH (2018-nay) SNH48 (2013-nay)
AKB48 Team SH
(2018-nay)
SNH48
(2013-nay)
BNK48 (2017–nay)
BNK48
(2017–nay)
MNL48 (2018–nay)
MNL48
(2018–nay)
IZ*ONE (2018-2021)
IZ*ONE
(2018-2021)
SGO48 (2018-2021)
SGO48
(2018-2021)
AKB48 Team TP (2018–nay)
AKB48 Team TP
(2018–nay)
MUB48 (TBA)
MUB48
(TBA)
CGM48 (2019-nay)
CGM48
(2019-nay)
DEL48 (2019-2020)
DEL48
(2019-2020)
KLP48 (2024-nay)
KLP48
(2024-nay)
Bản đồ phân bố địa lý các nhóm nhạc chị em của AKB48 ngoài Nhật Bản.
  • Sakamichi Series, những nhóm nhạc chị em được xem là đối thủ của AKB48
  • SNH48 Group, những nhóm nhạc dưới thương hiệu SNH48 ở Trung Quốc.
  • Iz*One, nhóm nhạc bước ra từ chương trình thực tế sống còn Produce 48, với sự tham gia từ AKB48 cùng 5 nhóm chị em tại Nhật Bản, tan rã vào tháng 4/2021.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “SKE松井珠理奈、NMB渡辺美優紀がAKB48に期間限定加入”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2012.
  2. ^ “King Records Official Site Give Me Five! profile” (bằng tiếng Nhật). King Records. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  3. ^ “AKB48 Launching SKE48 In Nagoya”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2021.
  4. ^ “SKE48 profile”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập 7 tháng 5 năm 2012.
  5. ^ “AKB48がR-18、大人相手の深夜ライブ - 芸能ニュース”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  6. ^ “NMB48、来年元日デビュー公演決定!大阪baseよしもと跡地に専門劇場オープン”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  7. ^ “AKB48『ついに九州・福岡に上陸 『HKT48』始動!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  8. ^ “インドネシアにもAKB妹分「JKT48」”.
  9. ^ “SNH48メンバー26人決まりました”.
  10. ^ 自由時報電子報 (10 tháng 6 năm 2016). “正版變山寨!中國SNH48竟遭AKB48官方除名 - 自由娛樂”. 自由時報電子報. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  11. ^ “AKB48渡边麻友:30岁想挑战女侦探角色”. 新浪娱乐. 16 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2018.
  12. ^ "AKB48公式ライバル"乃木坂46結成 一般公募でメンバー決定” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập 22 tháng 8 năm 2011.
  13. ^ “NGT48、劇場オープン3ヶ月延期 来年1月10日に” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. 16 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  14. ^ AKB48、来夏「STU48」誕生 瀬戸内7県舞台の「船上劇場」 (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. 10 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  15. ^ 『TPE48』プロジェクト発足! (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2011.
  16. ^ “New AKB48 sister groups to be formed in Manila, Bangkok and Taipei”. japantoday.com. ngày 28 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2017.
  17. ^ “オリコンミュージックストア”. オリコンミュージックストア. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.
  18. ^ “チェンマイ拠点の新グループ「CGM48」結成を発表 BNK48に次いでタイに2つ目”.
  19. ^ “AKB48 Announces New International Sister Group MUM48, Based in India”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.
  20. ^ Japan, Arama! (19 tháng 6 năm 2019). “AKB48 announce Indian sister groups DEL48 & MUB48”. ARAMA! JAPAN. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
  21. ^ N, Haris R. “DEL48 Mungkin Dibubarkan, Inilah Penjelasan dari Pihak YKBK48 Entertainment - Overseas Idol” (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  22. ^ “DEL48 & MUB48 Announce Closure - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  23. ^ “Nhóm nhạc 29 thành viên ở Việt Nam hoạt động ra sao?”. Báo Thanh Niên. 18 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  24. ^ “Ra mắt nhóm nhạc thần tượng nữ SGO48”. thethaovanhoa.vn. 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  25. ^ “Nhóm nhạc 27 thành viên tan rã”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.
  26. ^ Daily, AKB48. “AKB48 Launch New Overseas Sister Group KLP48 In Kuala Lumpur - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2024.
  27. ^ “KLP48 First Generation Members Announced”. KLP48 Official Website (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2024.
  28. ^ “Dàn thí sinh Produce 48 ra mắt đẹp hút hồn, idol Nhật Bản chiếm sóng nhất”.
  29. ^ “AKB48 xác nhận tham gia 'Produce 48' của Mnet, một cuộc chiến sống còn mới sắp bắt đầu!”.
  30. ^ “Produce 48 khép lại, lộ diện top 12 thí sinh thắng cuộc, debut với tên IZONE”. thethaovanhoa.vn. 1 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  31. ^ 'Produce 48' project group IZ*ONE makes debut”. koreatimes (bằng tiếng Anh). 30 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2023.
  32. ^ Online, TTVH (3 tháng 11 năm 2018). “Nhóm nữ tân binh Izone liên tục vượt mặt Black Pink”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2023.
  33. ^ “Đêm cuối MAMA 2018: Hương Tràm là nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất”. Tuổi Trẻ Online. 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  34. ^ iOne. “IZONE hủy họp báo comeback vì bê bối gian lận tại Produce 48”. ione.vnexpress.net. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2023.
  35. ^ “Cả 4 mùa show tranh tài 'Produce 101' đều gian lận”. Báo Thanh Niên. 11 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  36. ^ iOne. “Tương lai X1 và IZONE đã được công ty quản lý quyết định”. ione.vnexpress.net. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  37. ^ “[단독] 아이즈원, 연장 논의 박차...계약 과정에서 잡음 흘러나와”. Ilgan Sports. ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2021.
  38. ^ Abanes, Mariel (11 tháng 3 năm 2021). “IZ*ONE contract extension talks fall through, will disband in April”. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2023.
  39. ^ a b “K-pop girl group IZ*One split up after final online concerts”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). 30 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2023.
  40. ^ “AKB、HKT、NGTもAKSから独立 国内48グループ今後は地域密着がカギ – 東京スポーツ新聞社”. 東スポWeb (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2022.
  41. ^ “アイドルグループ「SKE48」を買収したKeyHolderってどんな会社”. M&A Online. 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  42. ^ “Notice Concerning Partial Transfer of Subsidiary Shares” (PDF) (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Nhật). JASDAQ. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  43. ^ “AKS、NMB48事業をKYORAKU吉本に譲渡”. ORICON NEWS. 4 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2022.
  44. ^ “HKT48及びNGT48の持株会社としてSprootを新たに設立 〜LINE、セプテーニ・ホールディングス、ピアラが資本参画〜”. 株式会社Sproot (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2022.
  45. ^ “せとうちDMO、『STU48』への支援を決定|せとうちDMO” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2022.
  46. ^ “AKB48中国官方姊妹组合Team SH一期生甄选结束 34名少女脱颖而出--日本频道--人民网”. japan.people.com.cn. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]