Dermatolepis dermatolepis

Dermatolepis dermatolepis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Chi (genus)Dermatolepis
Loài (species)D. dermatolepis
Danh pháp hai phần
Dermatolepis dermatolepis
(Boulenger, 1895)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Epinephelus dermatolepis Boulenger, 1895
  • Dermatolepis punctatus Gill, 1861

Dermatolepis dermatolepis là một loài cá biển thuộc chi Dermatolepis trong họ Cá mú. Loài này được Theodore Nicholas Gill mô tả lần đầu tiên vào năm 1861.[2] Năm 1895 George Albert Boulenger chuyển nó sang chi Epinephelus và đổi danh pháp thành Epinephelus dermatolepis, do danh pháp Epinephelus punctatus (Bloch, 1790) = Holocentrus punctatus Bloch, 1790 = Epinephelus guttatus (Linnaeus, 1758)? đã chiếm chỗ trước.[3] Năm 1993 Heemstra P. C. & J. E. Randall chuyển nó về chi Dermatolepis.[4]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

D. dermatolepis có phạm vi phân bố khá rộng ở vùng biển Đông Thái Bình Dương. Chúng được tìm thấy từ thành phố El Segundo, bang Californiavịnh California, trải dài về phía nam đến phía bắc Peru, bao gồm các hòn đảo ngoài khơi. D. dermatolepis sinh sống xung quanh các rạn san hôđá ngầm ở độ sâu được ghi nhận trong khoảng 5 - 50 m, nhưng có thể sống ở sâu hơn. Cá con thường ẩn mình trong các gai dài của loài nhím biển của chi CentrostephanusDiadema[1][5].

D. dermatolepis trưởng thành có chiều dài cơ thể lớn nhất đo được là 100 cm. Thân của nó có màu nâu xám với các đốm trắng và một ít các đốm đen nhỏ. Trán có độ xiên. Mặt có màu nâu với một sọc sáng nằm giữa hai mắt, chạy từ môi trên đến phần đầu vây lưng. Các vây có viền vàng. Cá con có màu đen với các sọc trắng xen kẽ, nhiều vệt đen trên vây[6].

Số gai ở vây lưng: 11; Số vây tia mềm ở vây lưng: 18 - 20; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số vây tia mềm ở vây hậu môn: 9; Số vây tia mềm ở vây ngực: 19 - 20[5].

Thức ăn của D. dermatolepis là những loài cá nhỏ, động vật thân mềmđộng vật giáp xác[5][6]. Chúng thường bơi thành những đàn lớn và sinh sản đồng thời theo tập hợp (gồm 30 - 70 cá thể). Mùa sinh sản của chúng thay đổi hàng năm hoặc diễn ra trong suốt cả năm[1]. D. dermatolepis được đánh bắt để phục vụ thương mại, nhất là tại quần đảo Galapagos[1].

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Bertoncini A. A., Erisman B. & Craig M. T. (2018). Dermatolepis dermatolepis. The IUCN Red List of Threatened Species. 2018: e.T132767A100459210. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132767A100459210.en. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2020.
  2. ^ Gill T. N., 1861. Synopsis generum Rhyptici et affinium - Dermatolepis punctatus. Proceedings of the Academy of Natural Sciences of Philadelphia 13: 54
  3. ^ Boulenger G. A., 1895. Epinephelus dermatolepis. Catalogue of the fishes in the British Museum. Catalogue of the perciform fishes in the British Museum. Ấn bản lần 2. Quyển I. Trang 256.
  4. ^ Heemstra P. C. & J. E. Randall, 1993. FAO Species Catalogue. Vol. 16. Groupers of the world (family Serranidae, subfamily Epinephelinae). An annotated and illustrated catalogue of the grouper, rockcod, hind, coral grouper and lyretail species known to date. Rome: FAO. FAO Fish. Synop. 125(16):382 p.
  5. ^ a b c Froese R. & D. Pauly (2019). Dermatolepis dermatolepis (Boulenger, 1895)”. FishBase. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2020.
  6. ^ a b “Dermatolepis dermatolepis”. Reef Life Survey.