Đoàn Như Khuê | |
---|---|
Sinh | 1883 |
Mất | 1957 |
Đoàn Như Khuê (段如奎,[1] 1883 – 1957), tự Quý Huyền, hiệu Hải Nam (海南); là nhà báo, nhà thơ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Ông là người làng Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Thuở nhỏ ông theo học chữ Hán, có đi thi Hương mấy lần nhưng đều hỏng. Sau, ông bỏ học chữ Hán, tự học Quốc ngữ; ra Hà Nội viết sách, dịch sách, và viết cho tờ Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí, v.v...
Sau năm 1945 ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc Liên khu III. Khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, hòa bình được tái lập, ông về định cư ở Hà Nội, và vẫn sống bằng nghề dịch thuật và văn triết cổ Trung Quốc cho đến khi mất (1957).
Sáng tác của Đoàn Như Khuê, gồm có:
Đoàn Như Khuê, sở trường về thơ, và được nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ xếp vào nhóm "các nhà làm thơ trước năm 1932", cùng lời giới thiệu như sau:
Một tấm lòng là tập thơ đầu và cũng là tập thơ duy nhất của ông. Ở đây thơ được làm theo đủ thứ thể loại: luật Đường, cổ phong, tứ lục, lục bát, song thất lục bát, hát xẩm, hát ả đào, phong dao..., và có đến ba phần tư tập thơ đều thuộc loại "thù ứng", "hiếu hỉ", như các bài: Mừng bạn mới cưới vợ, Mừng một bà tiết phụ, Thay lời bạn khóc vợ, Khóc bạn thân,...Cho nên theo Vũ Ngọc Phan thì nó mắc phải cái bệnh "Ý kiến đã không mới mẻ, nó lại còn không có tư tưởng gì, không ra khỏi cái vòng chơi chữ"[3]. Còn theo Phạm Thế Ngũ thì "nó mắc phải cái bệnh hời hợt, khách sáo, chắp ghép vụng về như thường thấy ở loại thơ này"[4], như:
Tuy nhiên, Phạm Thế Ngũ cũng như trước đó là Phạm Quỳnh và Vũ Ngọc Phan, đều có chung ý kiến là: "Trong suốt tập thơ này, chỉ lựa được một hạt châu duy nhất, đó là bài "Bể thảm". Đây là bài thơ nổi tiếng nhất, góp phần làm cho thơ thời kỳ 1910-1930 đầy tính chất bi luỵ: người khóc vợ (Đông Hồ), kẻ khóc chồng (Tương Phố), riêng Đoàn Như Khuê thì khóc đời!"[5]. Trích bài Bể thảm [6]: