Bách nhật duy tân (chữ Hán: 百日維新), còn gọi là Mậu Tuất biến pháp (戊戌变法), Mậu Tuất duy tân (戊戌維新) hoặc Duy Tân biến pháp (維新變法), đều là tên dùng để chỉ cuộc biến pháp do phái Duy Tân đề xướng, được Quang Tự Đế cho thi hành kể từ ngày 11 tháng 6 năm 1898 ở Trung Quốc.
Thế nhưng, công cuộc này chỉ tồn tại trăm ngày thì bị Từ Hi Thái hậu ra lệnh bãi bỏ (ngày 21 tháng 9 cùng năm), và những người chủ trì đều bị nghiêm trị[1].
Trước sự tăng cường xâu xé của các nước đế quốc, cộng thêm sự yếu hèn của tầng lớp thống trị, trong xã hội Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trào lưu tư tưởng mới, đòi cải cách chế độ, canh tân để cho đất nước sớm thoát khỏi ách nô lệ.
Khởi đầu là cuộc vận động Tự cường (1862 - 1882) của một số người, trong đó có các đại thần triều Thanh là Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, Phước Thành, Lê Thứ Xương, Tả Tôn Đường, Quế Lương,...Và họ đã làm được một số việc như: Tăng Quốc Phiên ở Thượng Hải, lập xưởng chế súng đạn, lập trường dạy tiếng nước ngoài, phái học sinh sang học ở Âu Mỹ. Tả Tông Đường ở Phúc Châu, lập xưởng đóng tàu và trường dạy hải quân. Lý Hồng Chương ở Thiên Tân, lập Thủy sư học đường để huấn luyện binh sĩ, đồng thời phái học sinh ra nước ngoài học về hải quân và lục quân...[2]
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì phong trào này tiến chậm, chủ yếu là nhầm vào việc quốc phòng thôi, chưa phải là một cuộc cải cách lớn. Vậy mà, phe thủ cựu đã nổi lên chống đối, cho rằng theo phương Tây là làm cho Trung Quốc hóa ra di địch...Trong khoảng thời gian đó có một người tên là Wong Tao học giỏi chữ Hán, ngoài hai chục tuổi, trong khoảng từ 1840 đến 1860 giúp việc cho nhà in của một hội truyền giáo Anh ở Thượng Hải. Bị nghi ngờ là tiếp xúc với Thái Bình Thiên quốc, ông phải trốn qua Hương Cảng, giúp James Legge dịch Tứ Thư và Ngũ Kinh rồi qua ở Scotland hai năm. Khi trở về Hương Cảng, Wong Tao xuất bản một nhật báo riêng, sau hợp tác với một tờ báo của người Anh ở Thượng Hải nữa (1872). Ông cảnh cáo nhà cầm quyền rằng công cuộc tự cường không có kết quả được vì chỉ trị ngọn chứ không trị gốc. Phải thay đổi cả chế độ mới được. Nhưng thời đó cơ hồ không ai hiểu ông. Phái thủ cựu thì tự cho mình là thanh cao, không bao giờ bàn tới học thuật phương Tây; còn phần đông nhân dân đều phải lo cày cấy để kiếm miếng ăn, không hề nghĩ đến việc nước. Mãi đến cuối thế kỷ 19, nhóm Khang Hữu Vi - Lương Khải Siêu nhờ đọc nhiều sách Âu Tây mới nhận ra là Wong Tao có lý [3].
Tháng 7 năm 1894, nhân việc tàu chiến Trung Quốc bị tàu chiến của một nước nhỏ là Nhật Bản đánh thua, Khang Hữu Vi cùng học trò là Lương Khải Siêu (gọi tắt là Khang - Lương) dâng thư lên Hoàng đế Quang Tự xin cải cách duy tân, nhưng bị Viện đô sát ở Thanh đình từ chối nên thư không đến được tay Hoàng đế.
Tháng 6 năm 1896, Khang - Lương lại dâng thư lần nữa, Lần này nhờ có thầy dạy Hoàng đế là Trạng nguyên Ông Đồng Hòa giúp đỡ nên thành công. Sau đó, hai thầy trò được mời vào cung gặp Hoàng đế để trình bày cặn kẽ chủ trương và cách thức tiến hành.
Sơ lược một vài chủ trương quan trọng:
-Khuyến khích mở mang công - nông - thương nghiệp, lập ra cục thương vụ, lập hội buôn, hội nông nghiệp (chú trọng việc khẩn hoang).
-Mua máy móc, du nhập sách báo và kỹ thuật của phương Tây, khuyến khích phát minh khoa học kỹ thuật.
-Cho thương nhân tự do lập công xưởng (chú trọng lập xưởng chế tạo súng đạn).
-Cho xây dựng đường sắt, tiến hành khai mỏ, mở ngân hàng,...
Đề ra nguyên tắc "Hán Mãn bất phân, quân dân cộng trị", để:
-Cho phép mọi người được góp ý kiến với triều đình về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội,...
- Tổ chức lại bộ máy cai trị, bỏ nha thự ít việc, cách chức các quan lại bất tài, tham nhũng.
-Xây dựng và luyện tập quân đội theo kiểu phương Tây, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các lực lượng vũ trang.
-Lập trường học theo kiểu phương Tây, cử người đi học ở nước ngoài.
-Cải cách chế độ thi cử, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào.
-Cho mở nhà in để in sách báo,...
Sau một thời gian dài chuẩn bị, ngày 11 tháng 6 năm 1898 công cuộc biến pháp bắt đầu bằng hàng loạt các sắc lệnh của Hoàng đế Quang Tự, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Đúng là "toàn biến" và "tốc biến" như khẩu hiệu mà phong trào Duy tân đã đề ra.
Thế nhưng chỉ mấy ngày sau thì vấp phải sự chống đối quyết liệt của phái Hậu đảng (người đứng đầu là Thái hậu Từ Hi) vì thủ cựu và vì bị mất lộc vị. Do vậy, Khang Hữu Vi khuyên Quang Tự đừng vội bỏ hết các nha môn và sa thải người của phái này, cốt làm dịu lại tình hình nhưng không thành công.
Cuộc phản công đầu tiên của phái Hậu đảng là tìm cách đuổi đại thần Ông Đồng Hòa về quê. Mất mát này đối với phái Duy tân là không nhỏ, bởi đây là nhân vật chủ chốt của phái Đế đảng (đảng ủng hộ Hoàng đế) và là người tích cực trong công cuộc biến pháp.
Đàm Tự Đồng, một thành viên nồng cốt của phái Duy tân, thấy Từ Hi và đồ đảng của bà cứ tìm cách cản trở công cuộc biến pháp, bèn khuyên Quang Tự mau chóng đoạt lại quyền bính. Hoàng đế nghe lời, triệu Viên Thế Khải (lúc bấy giờ đang thống lĩnh 7.000 quân) về Bắc Kinh bàn việc, rồi định đến ngày lễ duyệt binh ở Thiên Tân sẽ khởi sự.
Theo Nguyễn Hiến Lê, thì:
Trong quyển Hồi ký của mình, cựu hoàng Phổ Nghi cũng đã kể lại cuộc chính biến như sau:
Nhà sử học Will Durant viết:
Trong sách Trung Quốc Lịch sử thế giới cận đại, có đoạn:
Mặc dù cuộc cải cách chỉ diễn ra có trăm ngày, nhưng đã làm thay đổi ít nhiều nhận thức của sĩ phu và nhân dân Trung Quốc. Cho nên, theo Nguyễn Hiến Lê, thì sau hòa ước nhục nhã Tân Sửu (1901), để mua chuộc lại lòng người, Từ Hi cho thực hành lại hết những sắc lịnh biến pháp mà Hoàng đế Quang Tự đã ban ra, và lập thêm nhiều cơ quan mới để lo các việc học, huấn luyện tân binh, chấn hưng nông-công- thương,...[8]
Ngoài ra, tư tưởng cách tân của cuộc vận động này còn ảnh hưởng sâu rộng đến tầng lớp sĩ phu tiến bộ của một số nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Các nhà chí sĩ Việt Nam ở đầu thế kỷ 20, vì chịu ảnh hưởng của cuộc biến pháp Mậu Tuất cùng sách vở do nhóm khởi xướng biên soạn (nổi bật nhất là Khang - Lương), mà lập ra Duy Tân hội (1904) và phong trào Duy Tân (1906). Việc phong trào này thất bại cũng góp phần khiến triều đại nhà Thanh bước thêm 1 bước nữa đến sự diệt vong hoàn toàn vào đầu năm 1912.