Loại | Thức uống nóng hoặc có đá, cà phê sữa |
---|---|
Xuất xứ | Ý |
Thành phần chính | espresso, sữa được đánh bông |
Biến thể | Cà phê mocha (hương chocolate) |
Cà phê latte (hay gọi đơn giản là latte) (/ˈlɑːteɪ/ or /ˈlæteɪ/)[1][2] là một thức uống có nguồn gốc từ Ý bao gồm các nguyên liệu chính là cà phê và sữa được đánh lên, đồ uống này được tiêu thụ thường xuyên cả ở nhà và tại các quán cà phê, quán bar.
Tên gọi của loại thức uống này bắt nguồn từ tiếng Ý caffè e latte[3] [kafˌfɛ e lˈlatte], caffelatte [kaffeˈlatte] hay caffellatte [kaffelˈlatte], có nghĩa là "cà phê & sữa".[4][5]
Từ này cũng thường được đánh vần là latté hay lattè trong tiếng Anh với các loại dấu trọng âm khác nhau, có thể là cường điệu cao hoặc biểu thị rằng từ này không được phát âm theo các quy tắc của chính tả tiếng Anh.
Ở Bắc Âu và Scandinavia, thuật ngữ café au lait theo truyền thống đã được sử dụng để biểu thị cho sự kết hợp giữa espresso và sữa. Tại Pháp, café latte hầu hết được biết đến từ tên gốc của thức uống (caffè latte hoặc caffelatte); sự kết hợp giữa espresso và sữa đánh (khuấy) tương đương với "latte" trong tiếng Pháp gọi là grand crème hay tiếng Đức là Milchkaffee hoặc ở Áo là Wiener Melange.
Các biến thể của latte bao gồm cà phê mocha có hương vị sô cô la hoặc thay thế cà phê bằng một loại đồ uống khác như masala chai (trà gia vị Ấn Độ), mate, matcha, nghệ hoặc Rooibois; các loại sữa khác, chẳng hạn như sữa đậu nành hoặc sữa hạnh nhân, cũng được sử dụng.
Latte đã là một phần của ẩm thực châu Âu từ thế kỷ 17. Caffè e latte, Milchkaffee, café au lait và café con leche là những thuật ngữ trong nước để chỉ về cách uống cà phê truyền thống, thường là một phần của bữa sáng trong nhà.
Các quán cà phê công cộng ở châu Âu và Mỹ hầu như đều không phục vụ loại đồ uống này cho đến thế kỷ 20, dù Kapuziner đã bắt đầu được các quán cà phê của Áo ở Viên và Trieste phục vụ vào nửa sau của năm 1700 với cách chế biến là "cà phê với kem, gia vị và đường" (là nguồn gốc của cappuccino của Ý về sau này).
Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, thuật ngữ caffè e latte lần đầu tiên được sử dụng bằng tiếng Anh vào năm 1867 trong bài tiểu luận "Hành trình Ý" của William Dean Howells.[6] Kenneth Davids ủng hộ rằng "[...] đồ uống cho bữa sáng kiểu này đã tồn tại ở châu Âu qua nhiều thế hệ, nhưng phiên bản caffè (thương mại) của thức uống này lại mới là một phát minh của Mỹ".[7]
Thuật ngữ café au lait của Pháp được sử dụng trong các quán cà phê ở một số quốc gia ở lục địa châu Âu từ năm 1900 trở đi, trong khi chính người Pháp đã bắt đầu sử dụng thuật ngữ café crème cho cà phê với sữa hoặc kem từ trước đó.
Đế chế Áo-Hung (Trung Âu) có thuật ngữ riêng cho cà phê được phục vụ trong các quán cà phê, trong khi ở Đức, nó vẫn được gọi là Milchkaffee. Người Ý đã sử dụng thuật ngữ caffè latte trong nước, nhưng nó không được biết đến nhiều ở các quán cà phê như Florian ở Venice hoặc bất kỳ quán cà phê nào khác. Ngay cả khi văn hóa quán cà phê espresso của Ý nở rộ trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai cả ở Ý và ở các thành phố như Vienna và London, espresso và cappuccino vẫn chỉ là những thuật ngữ chính còn latte chưa có mặt trong thực đơn.
Ở các nước nói tiếng Anh, latte là từ viết tắt của caffelatte hoặc caffellatte (bắt nguồn từ caffè e latte, "cà phê và sữa"), đồng nghĩa với từ tiếng Pháp là café au lait, tiếng Tây Ban Nha là café con leche, tiếng Câtlan gọi là cafè amb llet hay tiếng Tây Ban Nha gọi là galão.
Caffe Mediterraneum ở Berkeley, California đã tuyên bố Lino Meiorin, một trong những chủ sở hữu ban đầu của nó (?), "phát minh" và biến latte thành một "thức uống tiêu chuẩn" vào những năm 1950. Latte sau đó đã được phổ biến ở Seattle, Washington vào đầu những năm 1980[8] và lan rộng ra vào đầu những năm 1990.[9][10]
Ở Bắc Âu và Scandinavia, một "xu hướng" tương tự đã bắt đầu vào đầu những năm 1980 khi café au lait trở nên phổ biến trở lại, được pha chế với espresso và sữa đánh bông mịn. Caffè latte sau đó cũng đã bắt đầu thay thế cho thuật ngữ trên vào khoảng năm 1996-1997, nhưng cả hai tên đến bây giờ vẫn còn tồn tại cạnh nhau, vậy nên nếu gọi đúng một trong hai tên trên thì chúng đều sẽ mang nghĩa là cà phê latte.
Ở Ý, cà phê latte hầu như luôn được chuẩn bị ở nhà và thường chỉ dành cho bữa sáng. Cà phê thường được pha bằng một bình moka để pha cà phê đun trên bếp và rót vào cốc chứa sữa nóng. (Không giống như thức uống latte 'quốc tế', sữa trong nguyên bản của Ý thường không tạo bọt và người uống có thể tự thêm đường, nếu muốn).
Ở bên ngoài nước Ý, một ly cà phê latte thường được pha trong ly hoặc cốc 240 mL (8 fl oz Mỹ) với một ly espresso tiêu chuẩn (đơn, 30 mL hay 1 fl oz Mỹ hoặc gấp đôi, 60 mL hay 2 fl oz Mỹ) và được đổ đầy bằng sữa đánh, với một lớp sữa được tạo bọt ở trên cùng dày khoảng 12 mm (1⁄2 in). Tại Mỹ, một ly latte thường được pha rất ngọt với 3% hoặc thậm chí là nhiều đường hơn.
Đồ uống này có liên quan tới cappuccino, nhưng sự khác biệt ở đây là một cốc cappuccino bao gồm espresso và sữa hấp với một lớp bọt sữa dày khoảng 20 milimét (0,79 in). Một biến thể của đồ uống này có thể thấy tại Úc và New Zealand tương tự như latte gọi là flat white, được phục vụ trong một cốc gốm nhỏ hơn với bọt sữa mịn. Tại Mỹ, đồ uống này đôi khi được gọi là cappuccino ướt.
Ở Mỹ, Latte đá lạnh được chế biến bằng cách đổ đầy một ly cà phê đá thường là espresso và sữa ướp lạnh rót lên trên đá.[11] Không giống như một ly latte nóng, nó thường không chứa sữa đánh mịn hay nhiều bọt.[12] Những ly latte đá lạnh thường có thêm xi-rô đường hoặc hương liệu, mặc dù những người theo chủ nghĩa thuần túy chỉ thích đơn thuần có cà phê và sữa.[13] Cà phê espresso có thể được làm lạnh trước (đôi khi là hỗn hợp của espresso và sữa) để tránh làm nóng đồ uống.[14]
Một ly cà phê latte khác với latte macchiato. Trong một ly latte macchiato, espresso được thêm vào sữa, thay vì ngược lại, vì vậy mà cà phê latte có hương vị cà phê mạnh hơn so với latte machiato
Latte macchiato là sữa được khuấy thành bọt sữa mịn, được phục vụ trong một ly với một nửa espresso rót nhẹ nhàng qua lớp bọt trên cùng, tạo ra một thức uống nhiều lớp với "macchia" (nghĩa đen: "tạo ra một vệt"), một điểm có espresso trên cùng. Như với một ly cà phê macchiato, đó là espresso với một điểm có sữa trên cùng, cho thấy có một chút sữa bên dưới bọt espresso, một latte macchiato thì ngược lại, để chỉ ra có espresso trong sữa. (câu cú lủng củng, cần chính sửa thêm)
Việc sử dụng thuật ngữ "macchiato" đã được mở rộng để bao hàm một lượng lớn đồ uống và kem sữa. Tại một số quốc gia (như Đức), latte macchiato là đồ uống được ưa thích. Bản thân từ "macchiato" trong tiếng Ý có nghĩa là tạo ra "vệt" cà phê hoặc sữa trên đồ uống.
Dù thuật ngữ macchiato đã được sử dụng để mô tả các loại thức uống espresso khác nhau, một cốc cà phê macchiato vẫn theo nguyên tắc và có tỷ lệ là 3/4 espresso và 1/4 sữa đánh. Một cốc macchiato thường có thể tích thực vào khoảng 2–3 fl oz Anh; 2–3 fl oz Mỹ (60–90 mL) và thường được phục vụ trong các quán cà phê. Mặc dù một cốc macchiato truyền thống khá nhỏ, nhưng vẫn có những nghệ thuật để rót kem vào đồ uống. Sự khác biệt duy nhất giữa nghệ thuật rót nghệ thuật vào latte và macchiato là đối với macchiato, sữa phải được rót nhanh hơn và qua một dòng nhỏ hơn nhiều.
... đồ uống dựa trên espresso với tên là cà phê latte....