Cá nóc hòm tròn lưng lần đầu được biết đến ở Địa Trung Hải qua một mẫu vật được thu thập ở bờ bắc Liban.[8] Kể từ đó cho đến năm 2021, loài này được ghi nhận rải rác từ bắc vào nam Liban.[9] Ngoài ra, cá nóc này cũng đã mở rộng phạm vi về phía bắc đến vịnh Antalya (tỉnh Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ).[10]
Cá nóc hòm tròn lưng sống trên rạn viền bờ và đầm phá; cá con thường tập trung gần các cụm san hô nhánh Acropora, độ sâu có thể lên đến 280 m.[11]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá nóc hòm tròn lưng là 45 cm.[12] Cá trưởng thành có bướu nhô lên ở trước mõm.[13] Cá con màu vàng với những đốm tròn đen to gần bằng mắt. Chính giữa các tấm vảy xương vỏ hộp có các đốm trắng bao quanh bằng vòng đen hoặc các chấm đen (trong đó chấm trung tâm màu trắng thường lớn hơn các chấm xung quanh màu đen) hoặc chỉ là một chấm đen. Những con lớn hơn hơi sẫm nâu hoặc là màu nâu ánh xanh lam.
Số tia vây ở vây lưng: 8–9; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 10–11.[1]
Theo nghiên cứu của Văn Lệ và cộng sự (2006), chưa phát hiện độc tính ở cá nóc hòm tròn lưng (không gây chết người khi ăn dưới 1000 g cá nóc có chứa lượng độc dưới 10 MU/g).[14]
^ abcTrần Thị Hồng Hoa (2015). “Họ Cá nóc hòm Ostraciidae ở Việt Nam”(PDF). Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 6: 149–375. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
^Vũ Việt Hà; Nguyễn Hoài Nam; Đặng Vân Thi (2006). “Hiện trạng nguồn lợi cá nóc ở biển Việt Nam”(PDF). Tuyển tập nghiên cứu nghề cá biển. 4: 85–119. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^ abR. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Ostracion cubicum”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2023.
^Christopher Scharpf (2022). “Order Tetraodontiformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
^ abRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Ostracion cubicum trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
^ abK. Matsuura (2001). “Ostraciidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Roma: FAO. tr. 3950. ISBN92-5-104051-6.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
^Nguyễn Văn Lệ, Nguyễn Hữu Hoàng, Bùi Thị Thu Hiền (2006). “Kết quả phân tích độc tố cá nóc biển Việt Nam”(PDF). Tuyển tập Nghiên cứu Nghề cá biển. 4: 256–264. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
Với những ai đã hoàn thành xong trò chơi, hẳn sẽ khá ngạc nhiên về cái kết ẩn được giấu kỹ, theo đó hóa ra người mà chúng ta tưởng là Phản diện lại là một trong những Chính diện ngầm