Cá rễ cau dài,[2][3] còn được gọi cá đèn cầy,[4][5]tên khoa học là Trypauchen vagina, là một loài cá bống thuộc chi Trypauchen trong họ Oxudercidae. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.
Từ định danh vagina trong tiếng Latinh nghĩa là “âm đạo”, hàm ý đề cập đến lỗ (thực tế là một cấu trúc như túi) ở rìa trên nắp mang của loài cá này, mặc dù không rõ chức năng của nó.[6]
Cá rễ cau dài lần đầu tiên được ghi nhận ở Địa Trung Hải, khi một cá thể được thu thập từ tàu đánh cá ở độ sâu đến 90 m ngoài khơi bờ biển Israel.[8] Chúng đã nhanh chóng mở rộng phạm vi đến vịnh İskenderun[9] và Mersin (Thổ Nhĩ Kỳ),[10] cũng như bờ biển Bắc Phi của Ai Cập.[11] Đã có hơn 50 cá thể loài này vô tình bị đánh bắt ở Port Said (Ai Cập) vào năm 2021.[12] Các nhà ngư học cho rằng, cá rễ cau dài có thể đến được từ Biển Đỏ thông qua kênh đào Suez, cụ thể là quá trình xả nước dằn tàu, mặc dù không có ghi nhận nào từ vùng biển này. Sự lan rộng của chúng đến vùng biển sâu gây đe dọa đến hệ sinh thái mesophotic (vùng biển mà ánh mặt trời trở nên yếu dần khi xuyên qua) của Địa Trung Hải.[13]
Không những vậy, cá rễ cau dài còn được ghi nhận ở xa đến cả Đại Tây Dương, có khả năng cũng là do quá trình xả nước dằn tàu. Loài này đã được thu thập tại bờ biển bang Maranhão[14] và bang São Paulo của Brasil. Tình trạng quần thể kết hợp với tính thích nghi cao là điều đáng báo động ở vùng biển Brasil.[15]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá rễ cau dài là 22 cm.[7] Loài này có màu đỏ hồng.
Số tia vây lưng: 50–58; Số tia vây hậu môn: 43–50; Số tia vây ngực: 15–20; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 4–5.[16]
Hai loài Trypauchen, loài còn lại là Trypauchen pelaeos, được phân biệt chủ yếu dựa vào sự chênh lệch số lượng các tia vây (số lượng trung bình các tia vây lưng và vây hậu môn của T. vagina nhiều hơn T. pelaeos) và chiều dài đầu (dài đầu của T. vagina ≤ 18% so với dài chuẩn của cả cơ thể, ở T. pelaeos thì tỉ lệ này cao hơn 18%).[16]
^ abcRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Trypauchen vagina trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
^Salameh, P.; Sonin, O.; Golani, D. (2010). “First record of the burrowing goby, Trypauchen vagina (Actinopterygii: Gobiidae: Amblyopinae), in the Mediterranean”. Acta Ichthyologica et Piscatoria. 40: 109–111. doi:10.3750/AIP2010.40.2.03. ISSN1734-1515.
^Galil, B. S.; Danovaro, R.; Rothman, S. B. S.; Gevili, R.; Goren, M. (2019). “Invasive biota in the deep-sea Mediterranean: an emerging issue in marine conservation and management”. Biological Invasions. 21 (2): 281–288. doi:10.1007/s10530-018-1826-9. ISSN1573-1464.
^Trevisan, João Pedro; Caires, Rodrigo Antunes; Rodrigues, Bruna Delfin Ferreira; Rotundo, Matheus Marcos; Alves, Douglas Fernandes Rodrigues; da Silva, Alexandre Ribeiro (2023). “Trypauchen vagina (Bloch & Schneider, 1801) a new established species in the Southwestern Atlantic”. Austral Ecology. 48 (8): 2126–2143. doi:10.1111/aec.13452. ISSN1442-9985.