Cá song gio sống ở vùng biển có nền đáy đá hoặc bùncát trộn lẫn, độ sâu đến ít nhất là 50 m, trong khi cá con thường thấy ở các vũng thủy triều.[1] Ở Trung Quốc, loài này sống ở độ sâu khoảng 2–3 m vào giữa mùa hè và bơi đến vùng nước sâu hơn vào mùa đông.[1]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá song gio là 60 cm.[9] Cá có màu nâu xám nhạt, thường ửng vàng hơn ở bụng. Hai bên thân có các dải nâu sẫm, có thể mờ đi ở những con trưởng thành cỡ lớn. Đầu và thân có nhiều đốm nhỏ màu vàng, thân còn lốm đốm các vệt trắng (thấy rõ trên các sọc nâu). Vây lưng mềm, vây đuôi và đôi khi là vây hậu môn có viền vàng.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 15–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 17–19; Số vảy đường bên: 49–55.[10]
Cá song gio là loài cá thực phẩm có giá trị thương mại trên toàn bộ phạm vi phân bố của chúng. Không những vậy, cá song gio còn được nuôi làm cá cảnh do có kiểu hình lạ mắt.
Cá song gio đang được nhân giống từ cá bột đánh bắt trong tự nhiên với quy mô lớn ở nhiều tỉnh Trung Quốc.[1] Trứng của loài này đã được thụ tinh nhân tạo và thời gian tồn tại lâu nhất của cá ấu trùng là 15 ngày.[9]
Trong vài năm qua, lai tạo thường được sử dụng đối với cá vì nó cho phép kết hợp các ưu điểm từ các loài khác nhau. Người ta đã thành công trong việc lai tạo cá mú từ cá song gio cái và Epinephelus tukula đực nhờ phương pháp thụ tinh nhân tạo. Con lai này có ưu điểm là tỉ lệ dị tật thấp và tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời mang lại giá trị kinh tế tiềm năng.[12]
^Trần Công Thịnh; Võ Văn Quang; Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Phi Uy Vũ; Trần Thị Hồng Hoa (2015). “Thành phần loài mẫu vật cá Mú (họ Serranidae) lưu trữ ở Bảo tàng Hải dương học”(PDF). Báo cáo khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật (Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ sáu): 327–333. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Serranus awoara”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
^ abcRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Epinephelus awoara trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
^ abPhillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Epinephelus”(PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 114. ISBN92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Liu, M.; Wang, Y.-Y.; Shan, X.-J.; Kang, B.; Ding, S.-X. (2016). “Primary male development of two sequentially hermaphroditic groupers, Epinephelus akaara and Epinephelus awoara (Perciformes: Epinephelidae)”. Journal of Fish Biology. 88 (4): 1598–1613. doi:10.1111/jfb.12936.
Yang, Kuan; Lin, Hungdu; Liu, Ruiqi; Ding, Shaoxiong (2022). “Genetic Structure and Demographic History of Yellow Grouper (Epinephelus awoara) from the Coast of Southeastern Mainland China, Inferred by Mitochondrial, Nuclear and Microsatellite DNA Markers”. Diversity. 14 (6): 439. doi:10.3390/d14060439. ISSN1424-2818.
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .