Casey Stoney

Casey Stoney
Stoney năm 2016
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Casey Jean Stoney[1]
Ngày sinh 13 tháng 5, 1982 (42 tuổi)[2]
Nơi sinh Basildon, Anh
Chiều cao 1,74 m[3]
Vị trí Hậu vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
San Diego Wave FC (huấn luyện viên)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1994–1998 Chelsea
1998–1999 Arsenal
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1999–2002 Arsenal
2002–2007 Charlton Athletic
2007–2011 Chelsea
2011–2013 Lincoln 38 (1)
2014–2016 Arsenal 39 (5)
2016–2018 Liverpool 14 (1)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2000–2017 Anh 130 (6)
2012 Vương quốc Liên hiệp Anh 4 (1)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
2009 Chelsea (Cầu thủ kiêm huấn luyện viên)
2018–2021 Manchester United
2021– San Diego Wave FC
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Casey Jean Stoney[4][5] (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1982) là cựu cầu thủ bóng đá người Anh, hiện đang làm huấn luyện viên trưởng cho San Diego Wave FC. Là một hậu vệ bóng đá đa năng, cô đã thi đấu hơn 100 trận cho Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Anh kể từ năm 2000. Sau khi góp mặt trong đội hình tham dự Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2005, cô là một phần không thể thiếu trong đội tuyển Anh khi đó góp mặt trong trận chung kết Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2009, tham dự vòng tứ kết của giải Giải vô địch bóng đá nữ thế giới các năm 20072011. Trong năm 2012, Stoney tiếp nhận chiếc băng đội trưởng của tuyển nữ Anh từ Faye White và trở thành đội trưởng đội tuyển nữ Vương Quốc Anh tham dự Thế vận hội Mùa hè 2012. Cô đã kết thúc sự nghiệp của mình tại Liverpool Ladies. Cô được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng đầu tiên của Nữ Manchester United mới thành lập vào ngày 8 tháng 6 năm 2018.[6]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Stoney gia nhập Chelsea Ladies ở tuổi 12[7] và chuyển đến Arsenal Ladies năm 1999. Cô đã trở thành một cầu thủ Quốc tế người Anh khi cô gia nhập đội Charlton Athletic Ladies vào mùa hè năm 2002 để tìm kiếm cơ hội thi đấu cho đội một. Cô cũng đã nhận được học bổng tại Trung tâm phát triển cầu thủ quốc gia của Hiệp hội bóng đá Anh tại Đại học Loughborough.[8] Trong một mùa giải đầu tiên thành công, Stoney đã dẫn dắt Charlton đến trận chung kết Cúp FA đầu tiên của họ.[9]

Cô góp mặt trong đội hình của Charlton trở thành nhà vô địch FA Women's Premier League Cup năm 2004[10]FA Women's Cup năm 2005 sau khi Charlton thắng Everton với tỷ số 1–0,[2] cũng như thắng 2–1 trước Arsenal vào năm 2006 ở FA Women's Premier League Cup.[11] Khi Charlton giải thể đội bóng đá nữ bởi đội bóng đá nam Charlton Athletic bị xuống hạng năm 2007, Stoney bày tỏ ý kiến mạnh mẽ:[12]

Tôi ghê tởm với câu lạc bộ - những người đàn ông bị xuống hạng và chúng tôi bị trừng phạt. Danh hiệu duy nhất của câu lạc bộ trong những năm gần đây đã được đội tuyển nữ giành chiến thắng - và trong bốn mùa giải trước, chúng tôi là đội bóng duy nhất ngoài Arsenal giành được danh hiệu lớn. Bảy tuần trước, chúng tôi đã chơi trước một đám đông kỷ lục tại trận chung kết Cúp FA - đó là trận đấu cuối cùng của chúng tôi và tôi hoàn toàn tiếc nuối cho tất cả mọi người ủng hộ phụ nữ. Tôi chỉ hy vọng rằng những gì đã xảy ra với chúng tôi không ảnh hưởng đến các trận đấu của phụ nữ - nếu không nó sẽ gặp rắc rối nghiêm trọng.

Tháng 7 năm 2007, cô ký hợp đồng với Chelsea Ladies cùng với đồng đội của cô ở Charlton đó là Eniola Aluko.[7] Vào tháng 2 năm 2009, cô trở thành cầu thủ kiêm huấn luyện viên cho đến cuối mùa giải sau khi Steve Jones từ chức.[13] Theo lời đề nghị của Stoney, Matt Beard đã đảm nhận chức vụ quản lý cho mùa giải 2009–10.[14]

Vào ngày 13 tháng 3 năm 2010, Stoney đã tuyên bố trên Twitter với các đối thủ chơi ở FA Women's Super League rằng cô đã ký hợp đồng với Lincoln Ladies để chơi bóng cùng với các đồng đội ở tuyển Anh khi đó là Sue SmithJess Clarke. Stoney nói rằng Lincoln đã cung cấp một kế hoạch dài hạn hết sức triển vọng mà Chelsea không thể sánh được.[15] Keith Boanas, là nhà quản lý của cô ở Charlton, cho rằng Stoney là một người ủng hộ Chelsea tất nhiên đó là một quyết định hết sức khó khăn.[16] Stoney tái hợp Arsenal trong hai mùa giải từ năm 2014 với mong muốn giành được nhiều danh hiệu hơn.[17]

Vào ngày 13 tháng 12 năm 2016, Liverpool xác nhận rằng Stoney đã ký hợp đồng với câu lạc bộ.[18] Cô chơi trận cuối cùng tại câu lạc bộ vào ngày 21 tháng 2 năm 2018. Sau đó, cô đã nghỉ hưu để đảm nhận vai trò trợ lý huấn luyện viên cho Phil Neville trong Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Anh.[19]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Cô có trận ra mắt đầu tiên cho Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Anh từ băng ghế dự bị trong trận gặp Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp vào tháng 8 năm 2000. Cô có tên trong danh sách tạm thời 30 cầu thủ tham dự Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2001 tuy nhiên cô không được góp mặt trong đội hình chính thức gồm 20 cầu thủ mà chỉ ở dạng cầu thủ chờ. Cô có trận chính thức đầu tiên của mình tháng 3 năm 2002 chống lại Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Na Uy,[20] Ở trận đấu đó, mặc dù sở trường của cô là vị trí tiền vệ phòng ngự hoặc hậu vệ phải tuy nhiên cô lại xuất phát ở vị trí hậu vệ trái.[21][22] Tháng 2 năm 2003, Stoney lần đầu tiên đeo băng đội trưởng khi đội trưởng Karen Walker đã bị thay thế trong trận thua 1-0 trước Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Ý.[9] Bàn thắng quốc tế của cô cho tuyển Anh trong trận thắng 4–0 trước Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Bồ Đào Nha ở giải Cúp Algarve vào tháng 3 năm 2005.[2]

Stoney có tên trong đội hình tham dự Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2005 được tổ chức tại Anh tuy nhiên cô không được sử dụng điều đó khiến cho cô hết sức thất vọng với mong muốn giã từ sự nghiệp thi đấu Quốc tế của mình.[23] Đến Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007 được tổ chức ở Trung Quốc, cô được an ủi phần nào khi vị trí không ưa thích của cô được giao cho Rachel Unitt và cô là một trong bốn cầu thủ góp mặt ở hàng thủ thi đấu không thiếu một phút nào tuy nhiên tuyển nữ Anh để thua Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Hoa Kỳ với tỷ số 3-0 trong trận tứ kết.[24][24] Stoney giành được giải Cầu thủ xuất sắc nhất toàn quốc trong năm 2007–08 trước Anita AsanteAlex Scott.[25] Vào tháng 5 năm 2009, Stoney là một trong 17 cầu thủ nữ đầu tiên được Hiệp hội bóng đá Anh (FA) ký hợp đồng.[26]

Tại giải đấu cuối cùng của Euro 2009Phần Lan, Stoney đã trở lại một cách mạnh mẽ sau khi bị một chiếc thẻ đỏ trong trận thua 2–1 trước Italy[27] để giúp đội tuyển Anh lọt vào trận chung kết. Stoney giải thích rằng đối với nhiều người chơi, đây không chỉ là thời điểm tốt nhất trong sự nghiệp của họ, mà còn là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời họ.[28]

Stoney bắt đầu tất cả bốn trận đấu của tuyển Anh tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 và thực hiện thành công cú đá luân lưu ở vòng tứ kết trước Tuyển Pháp.[29] Khi người đội trưởng Faye White chấm dứt sự nghiệp thi đấu quốc tế vào năm 2012 vì mang thai, Hope Powell bổ nhiệm Stoney làm đội trưởng đội tuyển Anh mới. "Đó là một vinh dự tuyệt đối, đặc quyền lớn nhất mà tôi từng được trao", đó là phản ứng của Stoney.[23]

Năm 2013, Stoney trở thành thành viên nữ đầu tiên của ủy ban quản lý Hiệp hội các cầu thủ chuyên nghiệp.[30] Cô dẫn dắt nước Anh vào chiến dịch Euro 2013 nhưng toàn đội thực hiện kém và kết thúc ở vị trí cuối cùng, với "sự thất vọng cay đắng" của cô.[31] Khi huấn luyện viên lâu năm của đội tuyển Anh Hope Powell bị sa thải, Stoney bị loại khỏi đội hình huấn luyện viên mới Mark Sampson do chấn thương bàn chân. Sampson thông báo cho Stoney rằng băng đội trưởng của cô đang được xem xét, một quyết định mà cô hiểu được.[32] Stephanie Houghton sau đó được đặt tên là người kế nhiệm của cô với tư cách là đội trưởng.[33]

Sau khi được gọi cho kỳ World Cup thứ ba liên tiếp của mình, Stoney cho biết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015 tại Canada sẽ là kỳ World Cup của cô.[34] Chủ yếu là xuất phát từ băng ghế dự bị, Stoney là một phần của đội Anh đầu tiên đủ điều kiện cho trận bán kết.[35] Cô đã chơi trận đấu quốc tế cuối cùng của mình trong trận giao hữu với Pháp vào ngày 21 tháng 10 năm 2017.

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
# Ngày Địa điểm Đối thủ Kết quả Giải đấu Số bàn thắng
1 9 tháng 3 năm 2005 Estádio de São Luís, Faro  Bồ Đào Nha 4–0 Cúp Algarve 2005 1
2 8 tháng 3 năm 2007 National Hockey, Milton Keynes  Nga 6–0 Giao hữu 1
3 7 tháng 3 năm 2009 Sân vận động Paralimni, Paralimni  Pháp 2–2 Cúp Cyprus 2009 1
4 1 tháng 3 năm 2010 Larnaca  Thụy Sĩ 2–2 Cúp Cyprus 2010 1
5 19 tháng 9 năm 2012 Sân vận động Bescot, Walsall  Croatia 3–0 UEFA Euro 2013 1
6 19 tháng 6 năm 2014 Arena Lviv, Lviv  Ukraina 2–1 FIFA Women's World Cup 2015 1

Olympic London 2012

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 6 năm 2012, Stoney góp mặt trong đội hình 18 cầu thủ của đội tuyển Anh tham dự Thế vận hội London 2012.[36] Đội được tuyển chọn bởi huấn luyện viên người Anh Hope Powell và bao gồm 16 cầu thủ Anh cùng với hai cầu thủ người Scotland đó là Kim LittleIfeoma Dieke. Stoney đã được xác nhận trong vai trò là đội trưởng.[37]

# Ngày Đại điểm Đối thủ Kết quả Giải đấu Số bàn thắng
1 28 tháng 7 năm 2012 Sân vận động Thiên niên kỷ, Cardiff  Cameroon 3–0 Thế vận hội London 2012 1

Sự nghiệp Huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 2 năm 2009, cô trở thành cầu thủ kiêm huấn luyện viên của Chelsea cho đến tháng 6 năm 2009 sau khi Steve Jones từ chức. Cô đã nghỉ hưu vào năm 2018 để đảm nhận một vai trò trong ban huấn luyện của Phil NevilleĐội tuyển bóng đá nữ quốc gia Anh.[19] Vào ngày 8 tháng 6 năm 2018, cô được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng đầu tiên của Đội nữ Manchester United mới thành lập.[6]

Vào ngày 14 tháng 7 năm 2021, Stoney được thông báo là huấn luyện viên trưởng của San Diego Wave FC, đội bóng mới nhất tại Giải vô địch bóng đá nữ quốc gia Mĩ (NWSL), bắt đầu thi đấu từ năm 2022.[38]

Thống kê Huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 16 tháng 5 năm 2021
Hồ sơ quản lý theo nhóm và nhiệm kỳ
Đội Bắt đầu Cho đến P W D L Win %
Manchester United 8 tháng 6 năm 2018 16 tháng 5 năm 2021 &000000000000007700000077 &000000000000005200000052 &00000000000000060000006 &000000000000001900000019 0&000000000000006753000067,53
San Diego Wave FC 14 tháng 7 năm 2021 Hiện tại &00000000000000000000000 &00000000000000000000000 &00000000000000000000000 &00000000000000000000000 !
Tổng cộng &000000000000007700000077 &000000000000005200000052 &00000000000000060000006 &000000000000001900000019 0&000000000000006753000067,53

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 11 năm 2012, Stoney được xếp hạng thứ 50 trong danh sách Hoa Hồng của tờ báo The Independent về những người đồng tính nam và đồng tính có ảnh hưởng ở Anh.[39] Vào ngày 10 tháng 2 năm 2014, Stoney lần đầu tiên công khai thừa nhận rằng cô là người đồng tính.[40] Cô có mối quan hệ với cựu đồng đội ở Lincoln đó là Megan Harris.[41] Vào ngày 16 tháng 7 năm 2014, cô thông báo rằng Harris đang mang thai sinh đôi.[42] Megan sinh ra cặp song sinh của họ đó là Teddy và Tilly vào ngày 8 tháng 11 năm 2014.[43] Con thứ ba của Stoney tên là Willow Olive sinh ngày 12 tháng 12 năm 2017.

Vào tháng 5 năm 2015, Đại học Essex tuyên bố sẽ trao cho Stoney một bằng danh dự.[44]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]
2000–01, 2001–02
2000–01, 2004–05, 2013–14, 2015–16
1999–00, 2000–01, 2003–04, 2005–06
  • Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FA:
2008, 2012
  • Đội hình tiêu biểu của PFA:
2014–15, 2015–16

Huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Manchester United
2018–19[45]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Player Statistics”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2010.
  2. ^ a b c “Casey Stoney”. The FA. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  3. ^ “2015 World Cup” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
  4. ^ “England's Casey Stoney talks of 'shock' at being awarded MBE”. ngày 12 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2015.
  5. ^ “Casey Stoney awarded MBE”. Arsenal FC. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2015.
  6. ^ a b “Casey Stoney MBE appointed Head Coach of women's team”. Manchester United F.C. ngày 8 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
  7. ^ a b Leighton, Tony (ngày 6 tháng 7 năm 2007). “Chelsea swoop for Charlton pair”. BBC Sport. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  8. ^ “Additional England players receive soccer scholarships at the FA National Player Development Centre at Loughborough University”. Womens Soccer World. ngày 30 tháng 7 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  9. ^ a b “England women Fixtures and Results, 2004/05”. Cresswell Wanderers FC. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
  10. ^ “Charlton lift Premier League Cup”. The FA. ngày 28 tháng 3 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  11. ^ Leighton, Tony (ngày 5 tháng 3 năm 2006). “Arsenal 1–2 Charlton Athletic”. BBC Sport. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  12. ^ Leighton, Tony (ngày 23 tháng 6 năm 2007). “Charlton shut down women's team”. BBC Sport. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  13. ^ “FA Women's Cup Quarter-Finals”. Fair Game. ngày 22 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 30 Tháng sáu năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  14. ^ Leighton, Tony (ngày 18 tháng 10 năm 2009). “John Terry digs deep to rescue Chelsea Ladies after funding cuts”. London: The Guardian. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.
  15. ^ Jessica Creighton (ngày 16 tháng 3 năm 2011). “Casey Stoney moves clubs ahead of the new Super League”. BBC Sport. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
  16. ^ Keith Boanas (ngày 27 tháng 3 năm 2011). “Keith Boanas/ Estonian National Women's Teams/ English Colleges”. She Kicks. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011.
  17. ^ Magowan, Alistair (ngày 2 tháng 1 năm 2014). “Casey Stoney: Arsenal Ladies sign England captain”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014.
  18. ^ “Reds confirm signing of England central defender Stoney”. Liverpool Ladies. ngày 13 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2016.
  19. ^ a b “Casey Stoney to leave Liverpool Ladies for England role”. Liverpool F.C. ngày 19 tháng 2 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
  20. ^ Beverley Ward (ngày 7 tháng 3 năm 2002). “Hope gives youngsters the thumbs up”. TheFA.com. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
  21. ^ “2002–03 Intake for FA National Player Development Centre at Loughborough Announced”. FemaleSoccer.net. ngày 30 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2011.
  22. ^ Glenn Moore (ngày 10 tháng 9 năm 2009). “The girls done good – now for the final test”. The Independent. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2011.
  23. ^ a b Magowan, Alistair (ngày 24 tháng 5 năm 2012). “Casey Stoney named as new England women's captain”. BBC Sport. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2012.
  24. ^ a b “Casey Stoney”. Team GB. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2012.
  25. ^ “Winners revealed”. Women Sport Report. ngày 27 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.[liên kết hỏng]
  26. ^ “England Women awarded contracts”. BBC Sport. ngày 14 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  27. ^ Ashley Gray (ngày 24 tháng 5 năm 2007). “Fara Williams insists: I'm to blame for Casey Stoney's sending off”. Daily Mail. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2011.
  28. ^ Marc Vesty (ngày 6 tháng 9 năm 2009). “England Ladies 2 – 1 Holland Ladies”. BBC Sport. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2011.
  29. ^ Chris Bevan (ngày 9 tháng 7 năm 2011). “Women's World Cup: England 1–1 France (France win 4–3 on pens)”. BBC Sport. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
  30. ^ Magowan, Alistair (ngày 13 tháng 11 năm 2013). “England captain Casey Stoney is first women on PFA committee”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014.
  31. ^ Stoney, Casey (ngày 12 tháng 9 năm 2013). “World Cup games a fresh start for England - Casey Stoney”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014.
  32. ^ Stoney, Casey (ngày 2 tháng 1 năm 2014). “Casey Stoney: I understand need to reassess England captaincy”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014.
  33. ^ Wilson, Scott (ngày 19 tháng 1 năm 2014). “North-Easterner Houghton expresses pride at captaining England”. The Northern Echo. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2013.
  34. ^ Skilbeck, John (ngày 11 tháng 5 năm 2015). “England defender Casey Stoney relishing final World Cup chance as she bids to end on a high”. The Daily Mail.
  35. ^ Harlow's Casey Stoney reflects on England World Cup success as Japan semi-final beckons, Harlow Star
  36. ^ “Team GB women's squad for London 2012 announced”. BBC Sport. ngày 26 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
  37. ^ “Stoney named GB women's captain”. Eurosport. ngày 8 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 12 tháng Bảy năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  38. ^ “San Diego Wave FC Names Head Coach – San Diego Wave Fútbol Club”. sandiegowavefc.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.
  39. ^ “The IoS Pink List 2012”. The Independent. ngày 4 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  40. ^ “Stoney reveals sexuality for first time”. BBC Sport. ngày 10 tháng 2 năm 2014.
  41. ^ Lamont, Tom (ngày 29 tháng 12 năm 2013). “Casey Stoney interview: 'I'd like to see a day when male footballers aren't afraid to come out'. The Observer. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  42. ^ “Casey Stoney: Why being a gay mum can help my England career”. BBC Sport. ngày 16 tháng 7 năm 2014.
  43. ^ [1]
  44. ^ “Honorary Graduands Announced”. University of Essex. ngày 12 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ 18 tháng Năm năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  45. ^ “Man Utd Women 7-0 Crystal Palace Ladies: Women's Championship title sealed by win”. BBC Sport. ngày 21 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Cold  Eyes - Truy lùng siêu trộm
Cold Eyes - Truy lùng siêu trộm
Cold Eyes là một bộ phim hành động kinh dị của Hàn Quốc năm 2013 với sự tham gia của Sol Kyung-gu, Jung Woo-sung, Han Hyo-joo, Jin Kyung và Lee Junho.
Nhân vật Tsugikuni Yoriichi -  Kimetsu no Yaiba
Nhân vật Tsugikuni Yoriichi - Kimetsu no Yaiba
Tsugikuni Yoriichi「継国緑壱 Tsugikuni Yoriichi」là một kiếm sĩ diệt quỷ huyền thoại thời Chiến quốc. Ông cũng là em trai song sinh của Thượng Huyền Nhất Kokushibou.
Hệ thống Petrodollars - Sức mạnh của đế chế Hoa Kỳ và cũng là gót chân Asin của họ
Hệ thống Petrodollars - Sức mạnh của đế chế Hoa Kỳ và cũng là gót chân Asin của họ
Sự phát triển của loài người đã trải qua nhiều thời kỳ đồ đá, đồ đồng....và bây giờ là thời dầu mỏ. Khác với vàng, dầu mỏ dùng để sản xuất, tiêu thụ, hoạt động
Giả thuyết về một thế giới mộng tưởng của Baal
Giả thuyết về một thế giới mộng tưởng của Baal
BẠCH THẦN VÀ LÔI THẦN – KHÁC BIỆT QUA QUAN NIỆM VỀ SỰ VĨNH HẰNG VÀ GIẢ THUYẾT VỀ MỘT THẾ GIỚI MỘNG TƯỞNG CỦA BAAL