Chính quyền địa phương ở Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước, thực hiện các chức năng quản lý và quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ của địa phương theo quy định của pháp luật, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích của nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Theo Hiến pháp năm 2013, chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.[1]
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2019, Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[2]
Về vị trí, hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Về tính chất, hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện của Nhân dân, thi hành pháp luật và là cơ quan tự chủ ở địa phương .
Về vị trí, Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Về tính chất, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân; cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; hoạt động theo cơ chế song trùng trực thuộc, vừa chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Chính quyền địa phương có vai trò kép: là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước thống nhất, thay mặt Nhà nước thực thi quyền lực trên lãnh thổ địa phương; là cơ quan do Nhân dân địa phương bầu ra nên có tính tự chủ nhất định.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ:
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương là những tư tưởng, quan điểm làm nền tảng, chi phối việc tổ chức, thiết kế mô hình và quá trình vận hành của chính quyền địa phương; bảo đảm chính quyền địa phương thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật ở các đơn vị hành chính, lãnh thổ.
Theo Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 và số số 77/SL ngày 21/12/1945, các đơn vị hành chính tại Việt Nam gồm có:
Giai đoạn này, không thành lập cấp chính quyền địa phương ở tất cả các đơn vị hành chính. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra. Một thành tựu quan trọng giai đoạn này là bộ máy chính quyền gọn nhẹ, có sự phân định khá rạch ròi giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
Theo Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp năm 1962, đơn vị hành chính của Việt Nam gồm:
Ở đây, mỗi đơn vị hành chính đều là một cấp chính quyền địa phương, có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Ủy ban hành chính là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Giai đoạn này, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương thể hiện rõ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao vai trò của hội đồng nhân dân, cơ cấu tổ chức có xu hướng tăng mạnh.
Theo Hiến pháp năm 1980, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983 (sửa đổi năm 1989), đơn vị hành chính của Việt Nam như sau:
Đến giai đoạn này, việc phân chia không có sự phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Mỗi đơn vị hành chính đều là một cấp chính quyền địa phương, có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Như vậy, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương giai đoạn này không có sự phân biệt về các vùng lãnh thổ. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương thiếu đi sự chủ động, dân chủ trở nên hình thức.
Theo Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 1994, 2003, đơn vị hành chính của Việt Nam như sau:
Giai đoạn này, việc phân chia không có sự phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Mỗi đơn vị hành chính đều là một cấp chính quyền địa phương, có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, đơn vị hành chính Việt Nam như sau:
Hiện nay, việc phân chia có sự phân định rạch ròi chính quyền địa phương ở các vùng, miền khác nhau: nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Mỗi đơn vị hành chính không nhất thiết tương ứng với một cấp chính quyền địa phương.
Đây là cơ quan hành chính của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có từ 11 đến 17 thành viên, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký.
Người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định bằng bầu ra theo hình thức bỏ phiếu. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thường đồng thời là một Phó Bí thư Tỉnh ủy. Chủ tịch Ủy ban nhân dân của hai thành phố trực thuộc trung ương lớn nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh sẽ đồng thời là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bộ máy giúp việc: Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Văn phòng ủy ban nhân dân và các sở, ban, ngành, chia thành các khối:
Theo quy định của Nghị định 171/2004/NĐ-CP, cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh có tới 26 Sở, trong đó cơ cấu cứng (có ở tất cả các tỉnh) là 19 Sở. Nhưng theo quy định mới tại Nghị định số 13/2008/NĐ-CP (do Chính phủ ban hành ngày 4/2/2008, thay thế Nghị định số 171/2004/NĐ-CP) thì số Sở, ban thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh giảm xuống còn 20, trong đó cơ cấu cứng là 17 Sở, ban, bao gồm các Sở: Nội vụ, Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Lao động- Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Y tế; Thanh tra tỉnh; Văn phòng ủy ban nhân dân. Chỉ có 3 Sở được tổ chức theo đặc thù của từng địa phương thay vì 7 Sở như trước đây, là các Sở: Ngoại vụ, Quy hoạch và Kiến trúc, ban Dân tộc.
Chi ngân sách: Chính quyền địa phương cấp tỉnh có những trách nhiệm sau thể hiện bằng các nhiệm vụ chi ngân sách [1] Lưu trữ 2007-02-16 tại Wayback Machine:
Các nguồn thu: Chính quyền địa phương cấp tỉnh dựa vào các nguồn thu sau để thực hiện những trách nhiệm nói trên:
Tuy nhiên, Luật Ngân sách Nhà nước 2002 không còn quy định cụ thể như trên nữa, mà chỉ quy định chung các nhiệm vụ chi và nguồn thu của ba cấp chính quyền địa phương. Còn cụ thể, cấp nào có trách nhiệm gì, quyền hạn gì thì giao cho chính quyền cấp tỉnh tự quyết.
Đây là cơ quan hành chính của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã. Ủy ban nhân dân cấp huyện có từ 9 đến 13 thành viên, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, ủy viên thư ký và các ủy viên. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký.
Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này là do Hội đồng nhân dân cấp huyện bầu ra theo hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện sẽ đồng thời là Phó Bí thư Huyện ủy.
Bộ máy giúp việc
Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông thường gồm các phòng, ban trực thuộc:
Chi ngân sách
Luật Ngân sách Nhà nước 1996 quy định khá rõ nguồn thu và nhiệm vụ chi của chính quyền địa phương cấp huyện.
Chính quyền địa phương cấp huyện có các nhiệm vụ chi sau:
Các nguồn thu
Chính quyền địa phương cấp huyện có quyền thu các loại thuế và nguồn thu sau:
Tuy nhiên, Luật Ngân sách Nhà nước 2002 không còn quy định rõ các nhiệm vụ chi và nguồn thu của địa phương cấp huyện nữa. Thay vào đó, để cho chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định cho cấp huyện.
Đây là cơ quan hành chính của các địa phương cấp xã, thị trấn, phường. Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã có từ 4 đến 5 thành viên, gồm Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 1 ủy viên quân sự và 1 ủy viên công an.
Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ đồng thời là Phó Bí thư Đảng ủy cấp xã. Ủy ban nhân dân cấp xã hoạt động theo hình thức chuyên trách và không chuyên trách.
Bộ máy giúp việc
Bộ máy giúp việc của Ủy ban Nhân dân cấp xã gồm có các công chức:
Chi ngân sách
Theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 1996 [2] Lưu trữ 2007-02-16 tại Wayback Machine, chính quyền địa phương ở xã, thị trấn có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ chi gồm:
Chính quyền địa phương ở phường có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ
Các nguồn thu
Nguồn thu của ngân sách tại xã, thị trấn gồm:
Nguồn thu của ngân sách tại phường gồm:
Tuy nhiên, Luật Ngân sách Nhà nước 2002 [3] Lưu trữ 2007-02-16 tại Wayback Machine không còn quy định cụ thể về nhiệm vụ chi và quyền thu của chính quyền địa phương cấp cơ sở này nữa. Nhiệm vụ chi và quyền thu của chính quyền địa phương cấp cơ sở sẽ do chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương cấp tỉnh, huyện và xã.
Đại biểu Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương cấp đó trực tiếp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm. Số lượng đại biểu hội đồng nhân dân tùy vào dân số tại địa phương đó.
Người đứng đầu Hội đồng nhân dân là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, do Hội đồng nhân dân bầu ra.
Ban Thường trực Hội đồng nhân dân gồm:
Hội đồng nhân dân có nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động thông qua kì họp Hội đồng nhân dân, hoạt động của thường trực Hội đồng nhân dân, các ban thuộc Hội đồng nhân dân và thông qua hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân
Kì họp Hội đồng nhân dân diễn ra 2 kì/năm, được triệu tập bởi thường trực Hội đồng nhân dân. Kì họp là hoạt động quan trọng và thường xuyên nhất của Hội đồng nhân dân, là nơi thể hiện tập trung nhất quyền lực Nhân dân và là nơi thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân. Kì họp làm việc tập thể và quyết định theo đa số (hơn 50%) trừ việc bãi nhiệm, miễn nhiệm đại biểu giữ chức trách do Hội đồng bầu ra là cần 2/3 số người tán thành
Thường trực Hội đồng nhân dân không phải là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân nhưng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các ban của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân có cả ở 3 cấp là xã, huyện, tỉnh.
Thường trực Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ triệu tập và chủ tọa các kì họp của HDDND, giám sát việc thực hiện HIến pháp và luật tại địa phương, trình Hội đồng nhân dân về việc bỏ phiếu bất tín nhiệm với người giữ trọng trách do Hội đồng nhân dân bầu ra, tổ chức tiếp dân, giữ mối quan hệ với Ban thường vụ Mặt trận tổ quốc Việt Nam, điều hoa hoạt động của các ban thuộc Hội đồng nhân dân và tập hợp các chất vấn của đại biểu trình Hội đồng nhân dân,...
Các ban của Hội đồng nhân dân: được thành lập ở cả 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Các ban bao gồm trưởng ban và các thành viên do Hội đồng nhân dân bầu ra và phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Các ban có nhiệm vụ giúp thường trực Hội đồng nhân dân chuẩn bị kì họp, thẩm tra các báo cáo do HDDND hay thường trực HDDND giao cho, giúp thường trực HDDND giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức chức kinh tế, xã hội và các lực lượng vũ trang Nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Tháng 11 năm 2008, Quốc hội Việt Nam ra nghị quyết phê duyệt thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Mục đích của bỏ Hội đồng nhân dân là để Nhân dân có cơ hội bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban Nhân dân ở địa phương mình, tăng cường dân chủ cơ sở.
Đối với cấp phường, công việc thí điểm này bắt đầu được tiến hành từ ngày 1 tháng 4 năm 2009 đối với 483 phường thuộc 67 huyện và 32 quận của 10 tỉnh, thành. Tạm thời, sau khi bỏ Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các xã Hội đồng nhân dân bị bỏ sẽ do Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp hành chính cao hơn bổ nhiệm, bãi miễn. Chính phủ Việt Nam cũng trình Quốc hội đề án thí điểm Nhân dân bầu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã ở các xã có Hội đồng nhân dân bị bỏ, Quốc hội chưa phê duyệt.
Riêng Hội đồng nhân dân các thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn sẽ không bị bỏ do các đơn vị này được coi là có đặc thù riêng, có tính độc lập tương đối cao.
Từ năm 2019 và năm 2020, Quốc hội Việt Nam khóa XIV đã thông qua các Nghị quyết cho phép ba Thành phố trực thuộc trung ương: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức mô hình Chính quyền đô thị. Theo đó:
Tổ chức thí điểm mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội như sau:
Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định và theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, thị xã.
Việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội được thực hiện từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 cho đến khi Quốc hội Việt Nam quyết định chấm dứt việc thực hiện thí điểm.
Tổ chức thí điểm mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng như sau:
Ủy ban nhân dân quận là cơ quan hành chính nhà nước ở quận, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố.
Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, Ủy ban nhân dân quận.
Việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng được thực hiện từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 cho đến khi Quốc hội quyết định chấm dứt việc thực hiện thí điểm.
Các quận, phường tại thành phố Đà Nẵng được thành lập được áp dụng mô hình chính quyền đô thị theo quy định. Việc chuyển tiếp hoạt động của chính quyền địa phương tại các đơn vị hành chính này thực hiện theo hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam cũng đang nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng, rất thận trọng để tổ chức việc người dân bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng theo chế độ phổ thông đầu phiếu, không phải bầu cử gián tiếp như hiện nay.
Tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Ngoài ra, Quốc hội cho phép Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Ủy ban nhân dân quận là cơ quan hành chính nhà nước ở quận, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, Ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố.
Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này, theo phân cấp của Ủy ban nhân dân Thành phố, Ủy ban nhân dân quận, Ủy ban nhân dân thành phố thuộc Thành phố và theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, thành phố thuộc Thành phố.
Từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, ở Việt Nam có xu hướng sáp nhập nhiều địa phương nhỏ thành địa phương lớn. Tuy nhiên, từ thập niên 1990 đến 2008 lại có xu hướng ngược lại- nghĩa là chia tách các địa phương thành những địa phương nhỏ hơn. Trong nhiều trường hợp, xu thế chia tách này mang hình thức tái lập tỉnh hay tái lập huyện. Các xu thế này xảy ra ở cả ba cấp tỉnh, huyện và xã. Nếu như vào năm 1986, ở Việt Nam có 40 địa phương cấp tỉnh, 522 địa phương cấp huyện và 9901 địa phương cấp xã, thì vào năm 2005 có tới 64 tỉnh/thành, 671 huyện, và 10876 xã.[4]
Lý do được công bố chính thức khi tiến hành chia tách địa phương là địa phương lớn khiến công tác quản lý của chính quyền gặp khó khăn, nhiều chính sách của chính quyền trung ương không về được tới chính quyền địa phương cấp cơ sở vì tỉnh và huyện rộng quá. Tuy nhiên, nhiều quan lý do thực tế có thể là tính cục bộ địa phương giữa các địa phương và sự yếu kém về năng lực quản lý của chính quyền tỉnh.[5][liên kết hỏng][6]
Từ thập niên 2008 đến nay, Việt Nam đang tiến hành sáp nhập lại nhiều địa phương nhỏ thành địa phương lớn. Từ năm 2008, Việt Nam có tới 63 tỉnh/ thành, trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung ương gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ
^ Tổng cục Thống kê (2006), Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển 1986-2005, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.