Từ định danh auripes được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: aureus ("mạ vàng") và pes ("bàn chân"), hàm ý không rõ, có lẽ đề cập đến màu vàng của vây bụng ở loài cá này.[3]
C. auripes sống tập trung trên các rạn san hô có sự phát triển phong phú của san hô và tảo ở độ sâu đến ít nhất là 30 m; cá con thường được bắt gặp trong các vũng thủy triều nông hơn.[1]C. auripes có thể sống được ở vùng nước mà nhiệt độ xuống đến 10°C tại Nhật Bản.[1]
C. auripes có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 20 cm.[13] Thân của C. auripes có các sọc ngang màu vàng và nâu xen kẽ. Phần thân trên hơi sẫm nâu, vàng hơn ở thân dưới. Đầu có màu xám với một dải đen từ đỉnh đầu băng xuống mắt, ngay sau dải đen này là một dải trắng nổi bật. Mõm ngắn và nhọn. Vây lưng và vây hậu môn có viền đen ở rìa ngoài, ngay sát phía trong là một dải mỏng hơn màu vàng tươi. Rìa sau của vây đuôi màu xám trong mờ.
Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 23–24; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 18–19; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[13]
Thức ăn của C. auripes chủ yếu là một số loài thủy sinh không xương sống.[13] Loài này đôi khi cũng ăn các polyp san hô nhưng đây không phải thức ăn chủ yếu của chúng.[14]
C. auripes có thể sống đơn độc hoặc kết đôi với nhau.[13]
^Hobbs, J-P.A.; van Herwerden, L.; Pratchett, M. S. & Allen, G. R. (2013). “Hybridisation Among Butterflyfishes”(PDF). Trong Pratchett, M. S.; Berumen, M. L. & Kapoor, B. (biên tập). Biology of Butterflyfishes. Boca Raton, Florida: CRC Press. tr. 48–69.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Đây là một trong các hải tặc nổi tiếng từng là thành viên trong Băng hải tặc Rocks của Rocks D. Xebec từ 38 năm về trước và có tham gia Sự kiện God Valley