Story of Seasons là một loạt trò chơi mô phỏngnông trại/nhập vai, mục đích chính của người chơi là điều hành trang trại trong một khoảng thời gian xác định hoặc không xác định, chăm sóc cây trồng và vật nuôi qua các mùa, đồng thời kết bạn với dân làng và kết hôn.[2][3] Các trò chơi Story of Seasons đã được phát hành trên nhiều hệ máy chơi trò chơi điện tử video và máy chơi trò chơi điện tử cầm tay khác nhau. Một số phần còn tái phát hành trên nhiều hệ máy sau này dưới dạng các phiên bản đặc biệt, bao gồm cả những bản cập nhật lối chơi.[4]
Mười bốn bản ngoại truyện có các yếu tố liên quan đã được phát hành.[5] Một trong số đó là Rune Factory: A Fantasy Harvest Moon, đánh dấu kỷ niệm 10 năm của loạt Story of Seasons.[6] Một lý do khiến loạt Story of Seasons vẫn phổ biến là do hệ thống cốt lõi của trò chơi không thay đổi. Theo Wada Yasuhiro, nhà thiết kế chính của Story of Seasons, đó là vì nhóm phát triển đã luôn đáp ứng các yêu cầu của người chơi, nhờ đó loạt luôn duy trì sự phổ biến của nó.[7]
Do Natsume giữ bản quyền đối với cái tên Harvest Moon, nên khi Marvelous quyết định mở chi nhánh riêng của họ ở Mỹ là Xseed Games để tiếp quản việc phân phối ở Bắc Mỹ, thì các tựa trò chơi sau này đều phải đổi tên thành Story of Seasons.[8][9] Cùng lúc đó Natsume cũng nắm lấy cơ hội và bắt đầu phát triển một loạt trò chơi mới tương tự như Harvest Moon, khởi điểm từ Harvest Moon: The Lost Valley.[10] Điều này được cho là đã gây ra một số nhầm lẫn giữa người mới chơi và người hâm mộ loạt lâu năm.[11]
Năm phát hành của hệ thống : 2000 – Game Boy Color[25] 2014 – 3DS Virtual Console
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari GB3: Boy Meets Girl (牧場物語GB3 ボーイ・ミーツ・ガール,Bokujō Monogatari GB3: Boy Meets Girl? hay "The Farm Story GB3: Boy Meets Girl")[25]
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Mineral Town no Nakama Tachi[32] (牧場物語 ミネラルタウンのなかまたち,Bokujō Monogatari: Mineral Town no Nakama Tachi[32]? hay "The Farm Story: Companions of Mineral Town")[33]
Năm phát hành của hệ thống : 2003 – GameCube[34] 2004 – PlayStation 2[4]
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Wonderful Life[34] (牧場物語~ワンダフルライフ,Bokujō Monogatari: Wonderful Life[34]? hay "The Farm Story: Wonderful Life")[35]
Một bản cập nhật đã được phát hành trên PlayStation 2,[4] còn được biết đến là Bokujō Monogatari: Oh! Wonderful Life (牧場物語Oh!ワンダフルライフ通常版,Bokujō Monogatari: Oh! Wonderful Life? hay "The Farm Story: Oh! Wonderful Life")[36] ở Nhật Bản và Harvest Moon: A Wonderful Life Special Edition ở các nước nói tiếng Anh[37]
Năm phát hành của hệ thống : 2003 – Game Boy Advance[38]
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Mineral Town no Nakama Tachi for Girls[38] (牧場物語ミネラルタウンのなかまたちforガール,Bokujō Monogatari: Mineral Town no Nakama Tachi for Girls[38]? hay "The Farm Story: Companions of Mineral Town for Girls")[39]
"Phiên bản nữ" của Harvest Moon: Friends of Mineral Town[40]
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Wonderful Life for Girls[41] (牧場物語ワンダフルライフforガール,Bokujō Monogatari: Wonderful Life for Girls[41]? hay "The Farm Story: Wonderful Life for Girls")[42]
Bản cập nhật của Harvest Moon: A Wonderful Life có nhân vật chính là nữ [43]
Bản dịch tiếng Nhật theo nghĩa gốc là "The Farm Story: Happy Poem" (牧場物語 しあわせの詩,"The Farm Story: Happy Poem"?)[45] còn có tên khác là Harvest Moon: Poem of Happiness[44]
Năm phát hành của hệ thống : 2005 – GameCube[49] 2008 – Wii[50]
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Shiawase no Uta for World (牧場物語 しあわせの詩forワールド,Bokujō Monogatari: Shiawase no Uta for World? hay "The Farm Story: Happy Poem for World")[51]
Bản mở rộng Bokujō Monogatari: Shiawase no Uta, có thêm nội dung mới[48]
Phát hành trên Wii năm 2008 cho vùng PAL và năm 2009 cho Bắc Mỹ [52]
Năm phát hành của hệ thống : 2005 – PlayStation Portable 2012 – PlayStation Vita
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Harvest Moon Boy and Girl (牧場物語ハーベストムーン ボーイ&ガール,Bokujō Monogatari: Harvest Moon Boy and Girl? hay "The Farm Story: Harvest Moon Boy & Girl")[54]
Bản tổng hợp lại từ Harvest Moon: Back to Nature và Bokujō Monogatari Harvest Moon for Girl[28]
Năm phát hành của hệ thống : 2008 – Nintendo DS[65]
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Kira Kira Taiyou to Nakama Tachi[65] (牧場物語 キラキラ太陽となかまたち,Bokujō Monogatari: Kira Kira Taiyou to Nakama Tachi[65]? hay "The Farm Story: Sun and Companions")[66]
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Waku Waku Animal March (牧場物語わくわくアニマルマーチ,Bokujō Monogatari: Waku Waku Animal March? hay "The Farm Story: Exciting Animal March")[68]
Năm phát hành của hệ thống : 2008 – Nintendo DS[69]
Chú thích:
Bản dịch tiếng Nhật theo nghĩa gốc là "The Farm Story: Welcome! To The Wind's Bazaar" (牧場物語 ようこそ!風のバザールへ,"The Farm Story: Welcome! To The Wind's Bazaar"?)
Năm phát hành của hệ thống : 2009 – PlayStation Portable[70] 2012 – PlayStation Vita
Chú thích:
Ở Nhật Bản gọi là Bokujō Monogatari: Sugar Mura to Minna no Negai (牧場物語シュガー村と皆の願い,Bokujō Monogatari: Sugar Mura to Minna no Negai? hay "The Farm Story: Sugar Village and Everyone's Wish")[69]
Phát hành trên PlayStation Vita thông qua dịch vụ PlayStation Plus vào ngày 24 tháng 8 năm 2012[55][71]
Ở Nhật Bản gọi là Innocent Life: Shin Bokujō Monogatari (イノセントライフ ~新牧場物語~,Innocent Life: Shin Bokujō Monogatari?)[88] và ở Úc là Harvest Moon: Innocent Life[86]
Phiên bản mở rộng theo hướng tương lai hóa của "Harvest Moon", trò chơi diễn ra trên một hòn đảo có nhiều tàn tích và người chơi sẽ khám phá bằng cách đi bộ hoặc xe.[89]
Một phiên bản đặc biệt đã được phát hành trên PlayStation 2 có tên là Innocent Life: A Futuristic Harvest Moon (Special Edition) dành cho thị trường Bắc Mỹ và Nhật Bản.[90]
Ngày 15 tháng 10 năm 2009, trò chơi đã được phát hành trên PlayStation Portable thông qua PlayStation Network.[91]
Tháng 8 năm 2012, trò chơi đã được phát hành trên PlayStation Vita thông qua dịch vụ PlayStation Plus.[55][92]
Nhà sản xuất Hashimoto Yoshifumi mô tả trò chơi "vẫn là Harvest Moon nhưng bạn cầm thêm một thanh kiếm".[6]
Rune Factory 2: A Fantasy Harvest Moon là bản Rune Factory cuối cùng có liên hệ với loạt Harvest Moon, Rune Factory sau đó trở thành loạt độc lập.[100]
Rune Factory 2: A Fantasy Harvest Moon ban đầu dự định sẽ phát hành mà không có tiêu đề phụ Harvest Moon[100] để cho Rune Factory có thể phát triển thành một loạt trò chơi độc lập, tuy nhiên Natsume đã áp phụ đề A Fantasy Harvest Moon cho bản phát hành tại Bắc Mỹ.[101]
Một phần ngoại truyện/chơi chéo với Doraemon, trò chơi có lối chơi phỏng theo cốt truyện chính của loạt Story of Seasons, nhưng có các nhân vật và vật phẩm đặc biệt dựa theo loạt phim hoạt hình Doraemon.
Một phần ngoại truyện/chơi chéo với Doraemon, trò chơi có lối chơi phỏng theo cốt truyện chính của loạt Story of Seasons, nhưng có các nhân vật và vật phẩm đặc biệt dựa theo loạt phim hoạt hình Doraemon.
Bandai Namco Entertainment xuất bản ở tất cả các khu vực.
^ abKameb (ngày 12 tháng 2 năm 2008). スーパーファミコンアワー番組表 (bằng tiếng Nhật). The Satellaview History Museum. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2009.
^Kameb (ngày 12 tháng 2 năm 2008). サウンドリンクゲーム一覧 (bằng tiếng Nhật). The Satellaview History Museum. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2009.
^Callis, Matthew (2009). “Statistics”. EludeVisibility.org. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2009.
^“PlayStation Store Update”. PlayStation.Blog. ngày 15 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
^Provo, Frank (ngày 27 tháng 11 năm 2007). “Puzzle de Harvest Moon Review”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2008.
Những trận đánh lồng ghép trong triết lí của các nhân vật, những thần thoại từ ở phía Tây xa xôi, những câu bùa chú cùng tuyến nhân vật đã trở nên kinh điển
Tên của 11 Quan Chấp hành Fatui được lấy cảm hứng từ Commedia Dell’arte, hay còn được biết đến với tên gọi Hài kịch Ý, là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất được ưa chuộng ở châu