Tiếng Tây Ban Nha |
---|
Khái quát |
Ngữ pháp |
Tiếng Tây Ban Nha có những danh từ diễn tả các vật cụ thể, các nhóm và phân loại của vật, số lượng, cảm xúc và các khái niệm trìu tượng khác. Tất cả các danh từ đều có một giới tính về mặt ngữ pháp. Danh từ đếm được có thể chia theo số lượng (số ít và số nhiều). Tuy nhiên, sự phân chia giữa danh từ đếm được và không đếm được không rõ ràng bằng tiếng Anh.
Tất cả danh từ tiếng Tây Ban Nha có một trong hai Giống (ngữ pháp): giống đực và giống cái (thường thì nó được phân chia ngẫu nhiên). Hầu hết tính từ và đại từ, và tất cả mạo từ và phân từ, đều được chia theo danh từ.
Ví dụ một câu như "Bàn to hơn thì đẹp hơn", trong tiếng Tây Ban Nha, Las mesas grandes son más bonitas, phải sử dụng các từ theo giống của danh từ. Danh từ, mesa ("bàn"), là giống cái trong tiếng Tây Ban Nha. Do đó, mạo từ cũng phải là giống cái, và vì vật phải dùng la thay vì el. Tuy nhiên, mesas ở đây là số nhiều, nên ta phải dùng las thay cho la. Những tính từ trong câu dù đứng cạnh danh từ hay động từ cũng phải "tuân theo" danh từ. Grande là từ mà không gia đổi theo giống, nên nó chỉ chia theo số nhiều: grandes. Bonito là từ chia được theo giống, nên ta dùng bonitas với mesas. Học sinh học tiếng Tây Ban Nha phải ghi nhớ những điều này khi thực hành.
Nói chung, hầu hết danh từ kết thúc bằng -a, -ción / -sión và -ad là giống cái; những danh từ còn lại, thường kết thúc bằng -o hoặc một phụ âm, là giống đực.[1]
Danh từ có thể phân loại thành các nhóm:
Danh từ kết thúc với -o là giống đực, với các ngoại lệ nổi bật là mano ("tay") và một số từ dưới dạng giản ước từ một từ dài hơn: foto ("ảnh") từ fotografía, và moto ("xe máy") từ motocicleta"; -a là điển hình của giống cái, với các ngoại lệ nổi bật; các nguyên âm và phụ âm khác thường không phải giống đực, nhưng nhiều từ là giống cái, đặc biệt là những từ đề cập đến phụ nữ (la madre) hoặc kết thúc với -ción/sión, -dad/tad, -ez (la nación, la televisión, la soledad, la libertad, la vejez).
Một nhóm nhỏ các từ có nguồn gốc Hy Lạp và kết thúc với -ma, "-pa", or "-ta" là giống đực: problema ("vấn đề"), lema ("châm ngôn"), tema ("chủ đề"), sistema ("hệ thống"), telegrama ("điện tín"), poeta ("nhà thơ"), planeta ("hành tinh"), v.v.
Các từ kết thúc với -ista đề cập đến với một người thường là lưỡng tính: el artista, la artista, "nghệ sĩ, nghệ sĩ nữ". Điều tương tự cũng đúng với các từ kết thúc với -ante hoặc -ente, mặc dù một số dạng giống cái kết thúc với -a được sử dụng.
Từ mượn từ tiếng nước ngoài có thể:
Tên người tuân theo giới tính của người, kể cả khi chúng có vẻ ngược lại:
Việc sử dụng với các địa điểm thay đổi. Bạn có thể chọn cách tạo ra chúng:
Với ví dụ như New York, Nueva là phần cố định của tên không không thể biến nó thành giống đực, nhưng New Mexico được dịch là Nuevo México và được coi là giống đực, vì México là danh từ giống đực.
Sông là giống đực vì danh từ giống đực río. Người La Mã cổ đại tin rằng thần sông (amnes) là những nam thần. Tại địa phương, một vài dòng sông có thể là giống cái, nhưng dùng giống đực luôn an toàn và chính xác hơn.
Có hai loại số lượng theo ngữ pháp: số ít và số nhiều. Dạng số ít là dạng có thể thấy trong từ điển (dạng cơ sở). Với hầu hết các từ số nhiều được tạo ra bằng cách thêm -s vào dạng cơ sở kết thúc với âm cuối không phải trọng âm hoặc là trọng âm -é, hoặc -es nếu nó kết thúc với một phụ âm hoặc mộ nguyên âm mang trọng âm khác ngoài it -é. Chú ý rằng chữ -y ở cuối như rey, mặc dù về mặt ngữ âm nó là nguyên âm, nó được tính là phụ âm (rey → reyes). Việc thêm -es vào một số danh từ tạo ra thay đổi về vị trí của trọng âm, do đó thay đổi sự hiện diện của dấu trọng âm (canción → canciones, bongó → bongoes nhưng rubí → rubíes), và tạo ra thay đổi trong cách viết các từ kết thúc với -c, -g và -z (lápiz → lápices, frac → fraques). Từ kết thúc với nguyên âm không mang trọng âm theo sau bởi -s hoặc -x không thay đổi trong số nhiều.[2]
Giống đực được sử dụng cho dạng số nhiều của từ mang cả hai giống: los niños, về mặt ngữ pháp là giống đực, có thể nghĩa là "những đứa trẻ" hoặc "những cậu bé". Giống cái vẫn riêng biệt trong số nhiều: las niñas = "những cô bé". Khi muốn chỉ ra là số nhiều giới nam, cụm từ như là los niños varones (những đứa trẻ trai) được sử dụng.
Một số từ luôn luôn là số nhiều: pantalones "quần dài", tijeras "kéo". Tuy nhiên trong nhiều phương ngữ, những chữ này chỉ được sử dụng để nói về số nhiều, dạng số ít sẽ sử dụng: pantalón, tijera.
Trong các diễn đạt với định từ vô hạn, dạng số ít được sử dụng (không như tiếng Anh, ở đó "some" và "any" thường chuyển danh từ thành dạng số nhiều).
Ninguno ("không") luôn dùng với danh từ dạng số ít, kể cả khi người nói mang nghĩa số nhiều:
Định từ cualquiera có dạng số nhiều (cualesquiera), nhưng nó không bao giờ được sử dụng ngoài những ngữ cảnh trang trọng.
Một nhóm các hậu tố hữu ích có thể được thêm vào các danh từ và tính từ để tạo thành một danh từ trong tiếng Tây Ban Nha. Điều này thường chỉ thay đổi một chút về nghĩa, nhưng đôi khi cũng tạo ra cái gì đó hoàn toàn khác.
Một nhóm các hậu tố phổ biến là từ giảm nhẹ, mà mang nghĩa nhỏ, tinh xảo, v.v. (cũng mang nghĩa thân mật). Từ giảm nhẹ phổ biến nhất trong tiếng Tây Ban Nha là -it-. Nó được thêm vào gốc của danh từ, và khi sử dụng thực tế nó cũng tuân theo quy tắc giống và số lượng.
Trong các trường hợp khác, kết thúc này có thể là từ chê bai hoặc xem thường.
Khi từ không kết thúc với một nguyên âm -it- trở thành -cit- đối với từ giảm nhẹ nếu từ kết thúc khác với "-o" or "-a" không có trọng âm.
Điều này thay đổi một chút khi từ cơ sở kết thúc với z. Vìz và chữ c nhẹ phát âm giống nhau trong tiếng Tây Ban Nhah, một chữ e được chêm vào (chú ý thay đổi về chính tả): pez → pececito / pecezote. Không có gì cố định đối với từ cơ sở kết thúc với những phụ âm khác is: azúcar → azuquítar or azuquita / azucota.
Khi từ kết thúc bằng -s hoặc -te, có các cách khác nhau.
Sự lực chọn từ giảm nhẹ nào thường dựa trên phương ngữ và ảnh hưởng từ các tiếng La Mã khác. Những người nói được giáo dục mà sử dụng -ito / -ita hoặc không có từ giảm nhẹ nào trong nói chuyện trang trọng có thể sử dụng các dạng địa phương khi họ muốn diễn đạt ý một cách thân thiện mà màu sắc hơn, đôi khi mượn từ giảm nhẹ của một vùng khác.
Nên thay vì -ito tiêu chuẩn, ban có thể thấy:
Đôi khi các hậu tố khác nhau được sử dụng cùng lúc thay vì một cái một lúc:
Cũng là một phiên bản khác từ Andalusia (đặc biệt là Sevilla) thay thế cho -ito, hậu tố -illo cũng là một từ giảm nhẹ đặc biệt với một sắc thái "hài hước...". Nó cũng được sử dụng để tạo ra một danh từ mới:
Một ví dụ về hiện tượng tương tự, nhưng sử dụng làm từ phóng đại là -ón:
Một hậu tố mang nghĩa là một cú đánh bằng hoặc để làm từ phóng đại -azo: