Epinephelus howlandi

Epinephelus howlandi
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Chi (genus)Epinephelus
Loài (species)E. howlandi
Danh pháp hai phần
Epinephelus howlandi
(Günther, 1873)

Epinephelus howlandi, tên thông thường là Blacksaddle grouper, là một loài cá biển thuộc chi Epinephelus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1873.

Phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

E. howlandi có phạm vi phân bố rộng khắp Tây Thái Bình Dương. Loài này được tìm thấy ở quần đảo Ryukyuquần đảo Ogasawara của Nhật Bản, về phía nam đến Palau, Papua New Guinea đến đông bắc Úc và các đảo ngoài khơi; phía đông trải rộng đến một số quần đảo thuộc 3 tiểu vùng: Melanesia, Micronesia, Polynesia. Những ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa, IndonesiaPitcairn cần được xác nhận lại. Cá trưởng thành sống xung quanh các rạn san hô và các bãi đá ngầm ở độ sâu khoảng 37 m trở lại, đôi khi ở các khu vực cửa biển; cá con sống ở vùng nước nông hơn[1][2].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

E. howlandi trưởng thành có chiều dài cơ thể lớn nhất đo được là 45 cm. Thân thuôn dài, hình bầu dục. Cơ thể cá trưởng thành có màu xám nâu với rất nhiều chấm nâu phủ khắp đầu và thân, và trên cả các vây. Một đốm đen to bằng mắt ở ngay giữa lưng; 2 đốm còn lại nhỏ hơn, nằm ở rìa sau vây lưng và trên cuống đuôi. Đuôi bo tròn, có viền trắng[2][3].

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây mềm ở vây lưng: 15 - 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 8; Số tia vây mềm ở vây ngực: 17 - 19; Số vảy đường bên: 49 - 52[3].

Thức ăn của E. howlandi là các loài cá nhỏ hơn, động vật thân mềmđộng vật giáp xác, hoặc thỉnh thoảng là giun biển. Chúng được đánh bắt trong nghề cá quy mô nhỏ, nhưng không phải là mục tiêu được đánh bắt vì chúng thường bị nhiễm độc[1][2].

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Epinephelus howlandi. Sách Đỏ IUCN.
  2. ^ a b c Epinephelus howlandi (Günther, 1873)”. FishBase.
  3. ^ a b John E. Randall, Gerald R. Allen, Roger C. Steene (1997), Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea, Nhà xuất bản University of Hawaii Press, tr.109 ISBN 9780824818951
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Pháo đài Meropide và Nước Biển Khởi Nguyên
Pháo đài Meropide và Nước Biển Khởi Nguyên
Vào thời điểm không xác định, khi mà Thủy thần Egaria còn tại vị, những người Fontaine có tội sẽ bị trừng phạt
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Trong thế giới chuyến sinh thành slime các ác ma , thiên thần và tinh linh là những rạng tồn tại bí ẩn với sức mạnh không thể đong đếm
Võ thuật tổng hợp (MMA): Lịch sử và Nguồn Gốc
Võ thuật tổng hợp (MMA): Lịch sử và Nguồn Gốc
Những ngôi sao điện ảnh như Bruce Lee (Lý Tiểu Long) là người đưa võ thuật đến gần hơn với công chúng
Một ma thần chưa rõ danh tính đang ngủ say tại quần đảo Inazuma
Một ma thần chưa rõ danh tính đang ngủ say tại quần đảo Inazuma
Giai đoạn Orobashi tiến về biển sâu là vào khoảng hơn 2000 năm trước so với cốt truyện chính, cũng là lúc Chiến Tranh Ma Thần sắp đi đến hồi kết.