Dzhikiya tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Georgi Tamazovich Dzhikiya | ||
Ngày sinh | 21 tháng 11, 1993 | ||
Nơi sinh | Moskva, Nga | ||
Chiều cao | 1,88 m | ||
Vị trí | Hậu vệ | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Spartak Moskva | ||
Số áo | 14 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2003–2010 | Lokomotiv Moskva | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2011–2013 | Lokomotiv Moskva | 0 | (0) |
2011–2013 | → Lokomotiv-2 Moskva | 64 | (2) |
2014 | Spartak Nalchik | 8 | (0) |
2014–2015 | Khimik Dzerzhinsk | 31 | (2) |
2015–2016 | Amkar Perm | 38 | (3) |
2017– | Spartak Moskva | 106 | (4) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2017– | Nga | 43 | (2) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 16 tháng 5 năm 2021 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2022 |
Georgi Tamazovich Dzhikiya (tiếng Nga: Георгий Тамазович Джикия; sinh ngày 21 tháng 11 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Nga gốc Gruzia thi đấu ở vị trí trung vệ cho Spartak Moskva tại Giải bóng đá ngoại hạng Nga.
Anh có màn ra mắt tại Russian Second Division cho F.K. Lokomotiv-2 Moskva vào ngày 24 tháng 5 năm 2011 trong trận đấu với FC Volochanin-Ratmir Vyshny Volochyok.[1]
Vào ngày 26 tháng 12 năm 2016, anh ký hợp đồng với F.K. Spartak Moskva.[2]
Ngày 18 tháng 1 năm 2018, anh dính chấn thương rách dây chằng chéo trước và phải nghỉ thi đấu vài tháng.[3]
Vào tháng 11 năm 2016, lần đầu tiên anh được triệu tập vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga thi đấu giao hữu với Qatar ngày 10 tháng 11 năm 2016 và România vào ngày 15 tháng 11 năm 2016.[4] Anh có màn ra mắt vào ngày 5 tháng 6 năm 2017 trong trận giao hữu với Hungary.
Tại Cúp liên đoàn các châu lục 2017, Dzhikiya đã chơi trọn vẹn cả 3 trận đấu trước New Zealand (2–0), Bồ Đào Nha (0–1) và Mexico (1–2). Trong trận đấu với các cầu thủ Bồ Đào Nha, anh đã phải nhận một thẻ vàng.
Anh đã bỏ lỡ FIFA World Cup 2018 mà Nga đăng cai, do chấn thương dây chằng gặp phải vào tháng 1.
Ngày 16 tháng 11 năm 2019, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển quốc gia trong trận đấu với Bỉ tại vòng loại Euro 2020.[5]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Lokomotiv-2 Moskva | 2011–12 | PFL | 22 | 0 | 2 | 0 | – | – | 24 | 0 | ||
2012–13 | 21 | 1 | 2 | 0 | – | – | 23 | 1 | ||||
2013–14 | 21 | 1 | 0 | 0 | – | – | 21 | 1 | ||||
Tổng cộng | 64 | 2 | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 68 | 2 | ||
Spartak Nalchik | 2013–14 | FNL | 8 | 0 | 0 | 0 | – | – | 8 | 0 | ||
Khimik Dzerzhinsk | 2014–15 | 31 | 2 | 2 | 0 | – | – | 33 | 2 | |||
Amkar Perm | 2015–16 | Giải bóng đá ngoại hạng Nga | 22 | 2 | 3 | 1 | – | – | 25 | 3 | ||
2016–17 | 16 | 1 | 1 | 0 | – | – | 17 | 1 | ||||
Tổng cộng | 38 | 3 | 4 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 42 | 4 | ||
Spartak Moskva | 2016–17 | Giải bóng đá ngoại hạng Nga | 8 | 0 | – | – | – | 8 | 0 | |||
2017–18 | 17 | 1 | 2 | 0 | 5 | 0 | 1 | 0 | 25 | 1 | ||
2018–19 | 26 | 2 | 3 | 0 | 6 | 0 | – | 35 | 2 | |||
2019–20 | 27 | 1 | 4 | 0 | 4 | 0 | – | 35 | 1 | |||
2020–21 | 28 | 0 | 2 | 0 | – | – | 30 | 0 | ||||
Tổng cộng | 106 | 4 | 11 | 0 | 15 | 0 | 1 | 0 | 133 | 4 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 247 | 11 | 21 | 1 | 15 | 0 | 1 | 0 | 284 | 12 |
Nga | ||
---|---|---|
Năm | Số trận | Số bàn |
2017 | 8 | 0 |
2018 | 5 | 0 |
2019 | 10 | 1 |
2020 | 5 | 0 |
2021 | 13 | 1 |
2022 | 2 | 0 |
Tổng cộng | 43 | 2 |
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 16 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Krestovsky, Saint Petersburg, Nga | Bỉ | 1–4 | 1–4 | Vòng loại Euro 2020 |
2. | 11 tháng 10 năm 2021 | Ljudski vrt, Maribor, Slovenia | Slovenia | 2–0 | 2–1 | Vòng loại World Cup 2022 |