Gervinho

Gervinho
Gervinho thi đấu cho Bờ Biển Ngà tại FIFA World Cup 2014
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Gervais Yao Kouassi
Ngày sinh 27 tháng 5, 1987 (37 tuổi)
Nơi sinh Anyama, Bờ Biển Ngà
Chiều cao 1,79 m
Vị trí Tiền đạo
Thông tin đội
Đội hiện nay
Trabzonspor
Số áo 27
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1998–2002 Mimosas
2002–2004 Toumodi
2004–2005 Beveren
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2005–2007 Beveren 61 (14)
2007–2009 Le Mans 59 (9)
2009–2011 Lille 67 (28)
2011–2013 Arsenal 46 (9)
2013–2016 Roma 71 (17)
2016–2018 Hà Bắc Trung Cơ 29 (4)
2018–2021 Parma 88 (23)
2021– Trabzonspor 9 (2)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2007– Bờ Biển Ngà 88 (23)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Bờ Biển Ngà
Bóng đá nam
Coupe d'Afrique des Nations
Vô địch Guinea Xích Đạo 2015
Á quân Guinea Xích Đạo & Gabon 2012
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 29 tháng 10 năm 2021
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến ngày 11 tháng 10 năm 2021

Gervais Yao Kouassi (sinh ngày 27 tháng 5 năm 1987), thường được biết đến với tên Gervinho, là một cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Trabzonspor tại Süper LigĐội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà.

Gervinho bắt đầu sự nghiệp tại ASEC AbidjanToumodi trước khi đến Bỉ vào năm 2004 để khoác áo Beveren. Từ năm 2007 đến năm 2011, anh thi đấu tại Pháp lần lượt cho Le MansLille. Anh trở thành cầu thủ của Arsenal vào năm 2011, và sau đó 2 năm thì chuyển sang thi đấu cho Roma với giá 8 triệu €. Vào tháng 1 năm 2016, Gervinho phiêu lưu sang Trung Quốc khoác áo Hà Bắc Trung Cơ. Tháng 8 năm 2018, anh trở lại châu Âu thi đấu cho Pama.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Gervinho được sinh ra ở Anyama, đây cũng là nơi tiền đạo của Wigan, Arouna Koné, được sinh ra.[1]

Anh bắt đầu sự nghiệp của mình ở lò đào tạo trẻ ASEC Abidjan. Trong vòng 5 năm ở đây, Gervais đã được đặt cho biệt danh mang đậm chất Brasil: "Gervinho", bắt nguồn từ cái tên của anh (Gervais).[2]

Sau này.anh chuyển đến Toumodi F.C nơi mà anh bắt đầu sự nghiệp chơi bóng chuyên nghiệp của mình.[3]

KSK Beveren

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa hè năm 2005, Gervinho cùng với Romaric, Emmanuel EboueBoubacar Barry chuyển đến chơi cho động bóng chuyên nghiệp ở Bỉ KSK Beveren tại giải Juliper League. Trong hai mùa giải ở đây (2005-2007), anh ra sân 61 lần, ghi được 14 bàn thắng.[2][3]

Vào cuối mùa giải 2006-07, Gervinho chuyển đến Ligue 1 chơi cho Le Mans ở đây anh được chơi cùng với tiền vệ đồng hương Romaric. Anh ghi được hai bàn thắng trong mùa giải đầu tiên của mình ở Ligue 1,[1] một trong 2 bàn là vào lưới câu lạc bộ Nancy.[4] Trong hai mùa giải đầu tiên ở Ligue 1, Gervinho chỉ ghi được 9 bàn thắng trong 59 lần ra sân.

Ngày 21 tháng 7 năm 2009, Gervinho chyển đến Lille với mức phí chuyển nhượng khoảng 6 triệu euro và bản hợp đồng có thời hạn ba năm[5]. Đến Lille, chân sút Bờ Biển Ngà đã có những tiến bộ vượt bậc. Mùa giải đầu tiên tại Lille, anh ra sân 32 lần ghi 13 bàn thắng[1]. Mùa giải thứ hai, anh có 42 trận ra sân ở tất cả các giải đấu và ghi 18 bàn thắng qua đó giúp Lille giành được cú đúp Ligue 1 và Coupe de France.[6]

Nhờ phong độ ấn tượng trong mùa giải 2010-11, Gervinho được rất nhiều câu lạc bộ lớn như Arsenal, Liverpool, Manchester City săn đón. Cuối cùng sau nhiều lần thương lượng, Arsenal đã có được Gervinho với mức phí chuyển nhượng được cho là 10.5 triệu bảng Anh.[7][8][9]

Ngày 18 tháng 7 năm 2011, Gervinho chính thức làm lễ ra mắt tại Arsenal.

Mùa giải 2011-12

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 23 tháng 7 năm 2011, anh ghi cú đúp đầu tiên giúp Arsenal thắng 2-1 trước F.C Koln.[10] Ngày 13 tháng 8, Gervinho có trận đấu đầu tiên tại Premier League với Newcastle United, tuy nhiên anh đã phải nhận thẻ đỏ trực tiếp sau pha va chạm với Joey Barton.[11] Chiếc thẻ đỏ này đã khiến anh bị cấm thi đấu 3 trận.[12] Ngay khi trở lại sau án phạt vào ngày 17 tháng 9, Gervinho đã ghi bàn mở tỉ số trong trận đấu với Blackburn Rovers và cũng là bàn thắng đầu tiên của anh cho Arsenal tại Premier League. Tuy nhiên Arsenal đã thua chung cuộc 3-4.[13]

Mùa giải 2012-13

[sửa | sửa mã nguồn]

Anh đã chơi 3 trên 4 trận đầu tiên của mùa giải, và lập cú đúp trong trận thắng Southampton 6-1 vào ngày 15 tháng 9.[14] Anh ghi bàn thắng đầu tiên của mùa giải tại UEFA Champions League vào ngày 18 tháng 9 trong trận thắng Montpellier HSC 2-1.

Ngày 16 tháng 3, Gervinho ấn định chiến thắng 2-0 trước Swansea City, sau một thời gian dài không ghi bàn cho Arsenal từ tháng 9.[15] Hai tuấn sau, Gervinho ghi một bàn và hai lần kiến tạo giúp Arsenal đánh bại Reading 4–1.[16]

Trong hai mùa giải thi đấu cho Arsenal, Gervinho có tổng cộng 11 pha lập công sau 63 trận đấu.[17]

Mùa giải 2013-14

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 8 tháng 8 năm 2013, Gervinho đã chính thức trở thành cầu thủ của Roma với mức phí chuyển nhượng khoảng 8 triệu €. Anh có trận đấu đầu tiên cho đội bóng Ý vào ngày 25 tháng 8 khi vào sân thay người trong trận đấu với Livorno.[18] Một tháng sau đó, anh có bàn thắng đầu tiên cho Roma từ đường chuyền của Francesco Totti trong chiến thắng 2-0 trước Sampdoria.[19] Trong trận đấu tại vòng kế tiếp, anh lập cú đúp giúp Roma thắng đậm Bologna 5-0.[20] Kết thúc mùa giải này, AS Roma từ vị trí thứ 6 mùa giải trước đã vươn lên vị trí thứ hai, trong đó Gervinho góp công lớn với 9 bàn thắng và 10 pha kiến tạo.[21]

Tại tứ kết Coppa Italia 2013-14 ngày 21 tháng 1 năm 2014, Gervinho ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu với Juventus đưa Roma vào bán kết.[22] Trong trận bán kết lượt đi với Napoli, Gervinho đã lập cú đúp tạo lợi thế 3-2 cho Roma[23] nhưng trong trận lượt về đội bóng của anh đã thua đậm 3-0.

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Gervinho khởi động trước một trận đấu tại Cúp bóng đá châu Phi 2008.

Gervinho từng là đội trưởng của đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bờ Biển Ngà.[3] Anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Bờ Biển Ngà lần đầu tiên trong trận giao hữu gặp AngolaQatar vào tháng 11 năm 2007, và được lựa chọn vào đội hình tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2008 tại Ghana, nơi mà anh được trao chiếc áo đấu số 10. Tại giải này, anh được vào sân thay người hai lần.

Tại Olympic 2008, giải đấu mà anh được trao băng đội trưởng[2], sau khi Bờ Biển Ngà thất bại trước Argentina trong lượt trận đầu tiên, Gervinho đã ghi một bàn và có hai lần kiến tạo trong chiến thắng 4–2 trước Serbia.[24] Ngày 15 tháng 1 năm 2010, Gervinho ghi bàn thắng thứ ba cho đội tuyển trong trận đấu vòng bảng Cúp bóng đá châu Phi 2010 gặp Ghana.[25] Anh có tổng cộng ba lần ra sân thi đấu tại giải và có một lần lập công.[26]

Gervinho chỉ có ba lần vào sân thay người ở vòng loại World Cup 2010 nhưng anh vẫn ghi được hai bàn thắng.[2] Ngày 15 tháng 6 năm 2010, anh có trận đấu đầu tiên tại World Cup khi chơi 82 phút trong trận đấu mở màn của Bờ Biển Ngà ở bảng G gặp Bồ Đào Nha.[3] Anh cũng được ra sân trong hai trận đấu còn lại tại World Cup 2010 với BrasilCHDCND Triều Tiên.[2]

Tại Cúp bóng đá châu Phi 2012, Gervinho ghi bàn vào lưới Mali tại bán kết để giúp Bờ Biển Ngà lọt vào trận chung kết với Zambia.[27] Tuy nhiên trong trận chung kết, chính anh là người đã phá hỏng quả phạt đền quyết định ở loạt sút luân lưu thứ 9 khiến cho Bờ Biển Ngà mất chức vô địch.[28] Một năm sau, tại Cúp bóng đá châu Phi 2013, Gervinho có được hai bàn thắng trong các trận vòng bảng gặp TunisiaTogo.

World Cup 2014

[sửa | sửa mã nguồn]

Gervinho là thành viên đội tuyển Bờ Biển Ngà tham dự World Cup 2014.[29] Trong trận mở màn bảng C World Cup 2014 với Nhật Bản, anh đã ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 2-1 cho Bờ Biển Ngà từ đường chuyền của Serge Aurier.[30] Trong trận đấu tiếp theo với Colombia ngày 19 tháng 6, anh đã vượt qua ba hậu vệ Colombia ghi bàn thắng rút ngắn tỉ số 2-1 cho Bờ Biển Ngà và đây cũng là tỉ số cuối cùng của trận đấu.[31]

Cúp bóng đá châu Phi 2015

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong trận đấu mở màn của Bờ Biển Ngà tại Cúp bóng đá châu Phi 2015, Gervinho đã bị truất quyền thi đấu do đánh vào mặt cầu thủ Naby Keita của Guinée trong trận hòa 1–1 tại sân vận động Malabo và bị cấm thi đấu hai trận.[32] Gervinho trở lại từ vòng tứ kết và ghi bàn ấn định chiến thắng 3-1 trước Algérie[33] và sau đó là bàn thắng trong chiến thắng với cùng tỉ số trước Cộng hòa Dân chủ Congo.[34] Bờ Biển Ngà lên ngôi tại giải đấu này sau thắng lợi trên chấm luân lưu trước Ghana trong trận chung kết.

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
# Thời gian Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Tỉ số Giải đấu
1. 14 tháng 11 năm 2009 Sân vận động Félix Houphouët-Boigny, Abidjan, Bờ Biển Ngà  Guinée 1–0 3–0 Vòng loại World Cup 2010
2. 2–0
3. 15 tháng 1 năm 2010 Sân vận động Chimandela, Cabinda, Angola  Ghana 1–0 3–1 CAN 2010
4. 17 tháng 11 năm 2010 Sân vận động Miejski, Poznań, Ba Lan  Ba Lan 1–1 1–3 Giao hữu
5. 5 tháng 6 năm 2011 Sân vận động Hữu nghị, Cotonou, Bénin  Bénin 3–0 6–2 Vòng loại CAN 2012
6. 5–2
7. 3 tháng 9 năm 2011 Sân vận động Amahoro, Kigali, Rwanda  Rwanda 5–0 5–0 Vòng loại CAN 2012
8. 8 tháng 2 năm 2012 Sân vận động Angondjé, Libreville, Gabon  Mali 1–0 1–0 CAN 2012
9. 8 tháng 9 năm 2012 Sân vận động Félix Houphouët-Boigny, Abidjan, Bờ Biển Ngà  Sénégal 2–2 2–4 Vòng loại CAN 2013
10. 14 tháng 1 năm 2013 Sân vận động Al Nahyan, Abu Dhabi, UAE  Ai Cập 1–0 4–2 Giao hữu
11. 3–1
12. 22 tháng 1 năm 2013 Sân vận động Royal Bafokeng, Rustenburg, Nam Phi  Togo 2–1 2–1 CAN 2013
13. 26 tháng 1 năm 2013 Sân vận động Royal Bafokeng, Rustenburg, Nam Phi  Tunisia 1–0 3–0 CAN 2013
14. 4 tháng 6 năm 2014 Sân vận động Toyota, Texas  El Salvador 1–0 2–1 Giao hữu
15. 14 tháng 6 năm 2014 Arena Pernambuco, Recife  Nhật Bản 2–1 2–1 World Cup 2014
16. 19 tháng 6 năm 2014 Sân vận động Mané Garrincha, Brasília  Colombia 1–2 1–2
17. 6 tháng 9 năm 2014 Sân vận động Félix Houphouët-Boigny, Abidjan, Bờ Biển Ngà 2–1 Vòng loại CAN 2015
18. 15 tháng 11 năm 2014 Sân vận động Ahmadou Ahidjo, Yaoundé, Cameroon  Cameroon 5–1 5–1
19. 1 tháng 2 năm 2015 Sân vận động Malabo, Malabo, Guinea Xích Đạo  Algérie 3–1 3–1 CAN 2015
20. 4 tháng 2 năm 2015 Sân vận động Bata, Bata, Guinea Xích Đạo  CHDC Congo 2–1
21. 25 tháng 3 năm 2016 Sân vận động Félix Houphouët-Boigny, Abidjan, Bờ Biển Ngà  Sudan 1–0 1–0 Vòng loại CAN 2017
22. 8 tháng 10 năm 2016 Sân vận động Bouaké, Bouaké, Bờ Biển Ngà  Mali 3–1 3–1 Vòng loại World Cup 2018
23. 12 tháng 11 năm 2020 Sân vận động Quốc gia Bờ Biển Ngà, Abidjan, Bờ Biển Ngà  Madagascar 1–0 2–1 Vòng loại CAN 2021

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Số liệu thống kê chính xác tới ngày 31 tháng 1 năm 2021
Câu lạc bộ Mùa giải Giải Cúp châu Âu Tổng cộng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Beveren 2005–06 32 6 0 0 0 0 32 6
2006–07 29 8 0 0 0 0 29 8
Tổng cộng 61 14 0 0 0 0 61 14
Le Mans 2007–08 26 2 4 4 0 0 30 6
2008–09 33 7 4 1 0 0 37 8
Tổng cộng 59 9 8 5 0 0 67 14
Lille 2009–10 32 13 0 0 8 5 40 18
2010–11 35 15 8 3 10 0 53 18
Tổng cộng 67 28 8 3 18 5 93 36
Arsenal 2011–12 28 4 2 0 7 0 37 4
2012–13 18 5 2 0 6 2 26 7
Tổng cộng 46 9 4 0 13 2 63 11
Roma 2013–14 33 9 4 3 0 0 37 12
2014–15 24 2 0 0 10 5 34 7
2015–16 14 6 0 0 3 1 17 7
Tổng cộng 71 17 4 3 13 6 88 26
Hà Bắc Trung Cơ 2016 18 3 0 0 0 0 18 3
2017 4 1 0 0 0 0 4 1
2018 7 0 0 0 0 0 7 0
Tổng cộng 29 4 0 0 0 0 29 4
Parma 2018–19 30 11 0 0 30 11
2019–20 31 7 1 2 32 9
2020–21 16 4 0 0 16 4
Tổng cộng 77 22 1 2 78 24
Tổng cộng sự nghiệp 410 103 25 13 44 13 479 129

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Pháp Lille

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Bờ Biển Ngà

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “Gervinho Bio, Stats, News - Football / Soccer - - ESPN Soccernet”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  2. ^ a b c d e “BBC Sport - World Cup 2010 - gervinho”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  3. ^ a b c d “FIFA.com - 2010 FIFA World Cup™ - GERVINHO”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  4. ^ “UPDATE 1-Soccer-Gervinho fires Le Mans up to third in Ligue 1 | Reuters”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  5. ^ “FIFA.com - Lille snap up Gervinho”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  6. ^ “FIFA.com - Arsenal reveal Gervinho deal agreed”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  7. ^ “Gervinho agrees deal to join Arsenal”. Arsenal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2011.
  8. ^ “Gervinho finally a Gunner”. Ligue1.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2011.
  9. ^ BBC Sport - Arsenal complete signing of Lille striker Gervinho
  10. ^ “Gervinho ra mắt hoàn hảo trong màu áo Arsenal”. VietnamPlus. ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2011. line feed character trong |title= tại ký tự số 38 (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  11. ^ “Mất người, Arsenal thủ hòa nhạt nhẽo tại St James Park”. Dân Trí. ngày 14 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2011.
  12. ^ “FA phạt Newcastle và Arsenal”. Tuổi Trẻ Online. ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  13. ^ Hải Đăng (ngày 17 tháng 9 năm 2011). “Hàng thủ tệ hại, Arsenal gục ngã trước Blackburn”. Dân Trí. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2011.
  14. ^ Arsenal 6 - 1 Southampton: Emirates ăn 'tiệc bàn thắng' Tin Thể thao, Thứ bảy, 23:11, 15/9/2012
  15. ^ Williams, Aled (ngày 16 tháng 3 năm 2013). “Swansea 0–2 Arsenal”. BBC Sport. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ Ornstein, David (ngày 30 tháng 3 năm 2013). “Arsenal 4-1 Reading”. BBC Sport. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2013.
  17. ^ “Gervinho & Marouane Chamakh face Arsenal exit”. BBC Sport. ngày 4 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2014.
  18. ^ “Livorno 0 - 2 Roma”. Football Italia. ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  19. ^ “Sampdoria 0-2 AS Roma”. ESPNFC. ngày 25 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  20. ^ “Roma remain perfect”. ESPNFC. ngày 29 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  21. ^ “Roma's season analysis. Gervinho, the game-changer, Garcia, the headshrinker”. SerieAddicted. 6 tháng 11 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2014.
  22. ^ “Gervinho's goal enough to give Roma victory over Juventus”. The Guardian. ngày 21 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  23. ^ “Gervinho leaves it late”. ESPNFC. ngày 5 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  24. ^ “Gervinho shines as Côte d'Ivoire beats Serbia 4-2 - The Official Website of the Beijing 2008 Olympic Games”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  25. ^ “Report: Ivory Coast v Ghana - African Nations Cup - ESPN Soccernet”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  26. ^ Ivorian With a Game to Match His Brazilian Name - NYTimes.com
  27. ^ Dan Baynes (ngày 9 tháng 2 năm 2012). “Gervinho Sends Ivory Coast Into Africa Cup of Nations Final Against Zambia”. Bloomberg. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
  28. ^ “Africa Cup of Nations: Zambia win dramatic shoot-out”. BBC Sports. ngày 12 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
  29. ^ “Les 23 Eléphants pour le Brésil” (bằng tiếng Pháp). Federation Ivoirienne de Football. ngày 1 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  30. ^ “World Cup: Ivory Coast hit back to see off Japan”. SkySports. ngày 15 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  31. ^ “Colombia 2-1 Ivory Coast”. BBC Sports. ngày 19 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  32. ^ “Afcon 2015: Two-match ban as Gervinho apologises for red card”. BBC Sport. ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2015.
  33. ^ “Ivory Coast 3-1 Algeria”. BBC Sport. ngày 1 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2015.
  34. ^ “Congo DR 1-3 Gervinho”. BBC Sport. ngày 4 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan