Touré năm 2013 | |||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Gnégnéri Yaya Touré[1] | ||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 13 tháng 5, 1983 [2] | ||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Bouaké, Bờ Biển Ngà | ||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,89 m[3] | ||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ | ||||||||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay |
Akhmat Grozny (trợ lý huấn luyện viên) | ||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||
1996–2001 | ASEC Mimosas | ||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||
2001–2003 | Beveren | 70 | (3) | ||||||||||||||||||||
2003–2005 | Metalurh Donetsk | 33 | (3) | ||||||||||||||||||||
2005–2006 | Olympiakos | 20 | (3) | ||||||||||||||||||||
2006–2007 | Monaco | 27 | (5) | ||||||||||||||||||||
2007–2010 | Barcelona | 74 | (4) | ||||||||||||||||||||
2010–2018 | Manchester City | 230 | (59) | ||||||||||||||||||||
2018 | Olympiakos | 2 | (0) | ||||||||||||||||||||
2019–2020 | Thanh Đảo Hoàng Hải | 14 | (2) | ||||||||||||||||||||
Tổng cộng | 470 | (82) | |||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||
2004–2015 | Bờ Biển Ngà | 101 | (19) | ||||||||||||||||||||
Sự nghiệp quản lý | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||
2021 | Olimpik Donetsk (trợ lý) | ||||||||||||||||||||||
2021– | Akhmat Grozny (trợ lý) | ||||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Gnégnéri Yaya Touré (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1983) là một cựu cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà chơi ở vị trí tiền vệ hiện đã giải nghệ. Anh là một tiền vệ lùi với tố chất mạnh mẽ, không ngại va chạm. Anh là cầu thủ người Bờ Biển Ngà đầu tiên chơi cho Barcelona. Anh là em trai của Kolo Touré. Yaya cũng có một người em trai tên Ibrahim Touré nhưng đã qua đời. Anh đã có 4 lần đoạt danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi (một kỷ lục và bằng với Samuel Eto'o).
Yaya Touré gia nhập lò đào tạo trẻ ASEC Mimosas năm 1996. Anh sau đó chuyển tới Bỉ để chơi cho KSK Beveren theo một bản hợp đồng có thời hạn 2 năm rưỡi và sau đó là thêm một năm rưỡi cùng đội bóng Ukraina Metalurh Donetsk.
Yaya Touré sau đó chuyển tới Olympiakos vào năm 2005. Anh được đặt biệt danh là "Patrick Vieira mới" bởi người anh Kolo Touré. Trước mùa giải 2005-06, anh có tham gia một quãng thời gian tập luyện cùng Arsenal, song không được ban lãnh đạo ký hợp đồng. Anh cũng được Eurosport bầu vào năm 2005 là một trong những tài năng hứa hẹn nhất thế giới, bản danh sách gồm có cả Javier Mascherano và Sergio Agüero.
Yaya Touré gia nhập FC Barcelona với mức giá 9 triệu euro và có trận ra mắt gặp Racing de Santander.
Touré có bàn thắng đầu tiên trong trận gặp Inter Milan ở cúp Joan Gamper. Anh chính thức ghi bàn thắng đầu tiên ở La Liga trong trận gặp Athletic Bilbao vào ngày 2 tháng 9 năm 2007. Bàn thắng đầu tiên của anh ở cúp C1 là trong trận gặp FC Schalke 04 ở tứ kết cúp C1 mùa giải 2007-08.
Đầu mùa giải 2008-09, huấn luyện viên Josep Guardiola muốn dùng Sergio Busquets ở vị trí tiền vệ trung tâm và bắt đầu dấy lên những tin đồn về việc Touré có thể ra đi, xong anh đã tận dụng được cơ hội và thi đấu tốt khi bước vào năm mới. Ở trận chung kết cúp C1 mùa giải 2008-09, Touré đã được đưa về để đá trung vệ và đã khoá chặt Wayne Rooney, góp công vào chiến thắng 2-0 của Barca trước Manchester United.
Hè 2010, sau khi kết thúc World Cup, Yaya Touré đã được FC Barcelona bán cho câu lạc bộ Manchester City với giá 24 triệu Euro (ở đó có Kolo Touré, anh trai của Yaya đang chơi ở vị trí trung vệ).
Vào ngày 28 tháng 7, Touré ra mắt Man City trong trận giao hữu trước mùa giải với Club América. Man City đã thắng 4–1 trên chấm phạt đền sau trận hòa 1–1 sau thời gian thi đấu chính thức. Trong trận ra mắt sân nhà Etihad vào ngày 7 tháng 8 khi đá giao hữu với Valencia, anh được trao giải "Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu".
Vào ngày 14 tháng 8 năm 2010, Touré đã ra mắt Premier League trong trận hòa 0–0 với Tottenham Hotspur tại White Hart Lane. Một tuần sau, Touré đã gây ấn tượng trong trận thắng 3–0 trước Liverpool tại Eastlands khi là một phần của hàng tiền vệ ba người cùng Gareth Barry và Nigel de Jong. Vào ngày 19 tháng 9, Touré đã ghi bàn thắng đầu tiên cho City trong trận đấu với Wigan Athletic. Bàn thắng được ghi ở phút 70 và được kiến tạo bởi Carlos Tevez, người cũng ghi bàn trong trận đấu đó. Touré được tấn công nhiều hơn dưới thời Roberto Mancini và chủ yếu chơi ở vị trí này. Anh đã ghi một bàn thắng tuyệt vời chân trái vào lưới West Ham United và tiếp tục ghi bàn thứ hai, sau đó được tính là bàn thắng phản lưới nhà vì bóng nảy ra khỏi cột, đập vào lưng thủ môn Robert Green và đi vào lưới.
Sau khi kết thúc hợp đồng với câu lạc bộ Manchester City vào hè 2018, Yaya Touré là cầu thủ tự do. Ngày 2 tháng 9 năm 2018, anh kí hợp đồng mới để trở lại Olympiakos[4]. Đến ngày 11 tháng 12 năm 2018, hai bên quyết định chấm dứt hợp đồng[5].
Ngày 10.5.2019, nhiều tờ báo đưa tin Yaya Touré đã chính thức tuyên bố giải nghệ ở tuổi 35 để tập trung vào sự nghiệp huấn luyện viên. Sau đó, anh đã bác bỏ các thông tin này, giải thích rằng anh đang chuẩn bị cho công việc huấn luyện nhưng vẫn đang cân nhắc để chơi bóng thêm vài năm nữa.
Ngày 3.7.2019, Yaya Touré bất ngờ quay trở lại với bóng đá. Anh đầu quân cho câu lạc bộ Thanh Đảo Hoàng Hải ở giải Hạng Nhất Trung Quốc theo một bản hợp đồng chưa tiết lộ[6]. Trước đó, vào năm 2017, Toure từng tuyên bố sẽ không bao giờ đến Trung Quốc chơi bóng: "Tôi sẽ cảm thấy tức giận nếu phải chơi bóng tại đó. Tôi chơi bóng vì đam mê, không phải vì tiền"[7].
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu Âu | Tổng cộng | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Beveren | 2001–02 | 28 | 0 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 28 | 0 |
2002–03 | 30 | 3 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 30 | 3 | |
2003–04 | 12 | 0 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 12 | 0 | |
Tổng cộng | 70 | 3 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 70 | 3 | |
Metalurh Donetsk | 2003–04 | 11 | 1 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 11 | 1 |
2004–05 | 22 | 2 | 2 | 1 | - | - | 4 | 1 | 28 | 4 | |
Tổng cộng | 33 | 3 | 2 | 1 | - | - | 4 | 1 | 39 | 5 | |
Olympiakos | 2005–06 | 26 | 3 | 0 | 0 | - | - | 6 | 0 | 32 | 3 |
Tổng cộng | 26 | 3 | 0 | 0 | - | - | 6 | 0 | 32 | 3 | |
Monaco | 2006–07 | 27 | 5 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 27 | 5 |
Tổng cộng | 27 | 5 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 27 | 5 | |
Barcelona | 2007–08 | 26 | 1 | 2 | 0 | - | - | 12 | 1 | 40 | 2 |
2008–09 | 25 | 2 | 5 | 1 | - | - | 10 | 0 | 40 | 3 | |
2009–10 | 23 | 1 | 6 | 0 | - | - | 8 | 0 | 37 | 1 | |
Tổng cộng | 74 | 4 | 13 | 1 | - | - | 30 | 1 | 117 | 6 | |
Manchester City | 2010–11 | 35 | 6 | 8 | 3 | 0 | 0 | 8 | 1 | 51 | 10 |
2011–12 | 32 | 6 | 1 | 0 | 0 | 0 | 9 | 3 | 42 | 9 | |
2012–13 | 32 | 6 | 5 | 2 | 0 | 0 | 5 | 1 | 42 | 9 | |
2013–14 | 35 | 20 | 4 | 0 | 3 | 3 | 7 | 1 | 49 | 24 | |
2014–15 | 29 | 10 | 1 | 0 | 2 | 1 | 5 | 1 | 37 | 12 | |
2015–16 | 32 | 6 | 0 | 0 | 5 | 1 | 10 | 1 | 47 | 8 | |
2016–17 | 25 | 5 | 4 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 31 | 7 | |
2017–18 | 6 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | 3 | 0 | 13 | 0 | |
Tổng cộng | 226 | 62 | 23 | 7 | 14 | 5 | 49 | 8 | 312 | 82 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 456 | 79 | 39 | 10 | 14 | 5 | 89 | 10 | 597 | 104 |
Bờ Biển Ngà | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2004 | 3 | 0 |
2005 | 2 | 0 |
2006 | 15 | 1 |
2007 | 4 | 1 |
2008 | 10 | 1 |
2009 | 8 | 2 |
2010 | 13 | 2 |
2011 | 5 | 2 |
2012 | 10 | 1 |
2013 | 10 | 6 |
2014 | 10 | 2 |
2015 | 10 | 1 |
Tổng cộng | 100 | 19 |