Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Giáo dục sức khỏe (Health Education) giống như giáo dục chung, là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến suy nghĩ và tình cảm của con người, nhằm nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ và thực hành các hành vi lành mạnh để bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Giáo dục sức khỏe nói chung tác động vào 3 lĩnh vực: kiến thức của con người về sức khỏe, thái độ của con người đối với sức khỏe, thực hành hay cách ứng xử của con người đối với bảo vệ và nâng cao sức khỏe.
Ở Việt Nam từ trước đến nay hoạt động giáo dục sức khỏe đã được thực hiện dưới các tên gọi khác nhau như: tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền giáo dục sức khỏe, giáo dục vệ sinh phòng bệnh... Hiện nay chúng ta thống nhất tên gọi là giáo dục sức khỏe. [1]
Từ cuối Thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, mục đích của y tế công cộng là kiểm soát được các tác hại từ các bệnh truyền nhiễm, trong đó phần lớn là dưới sự kiểm soát trong những năm 1950. Vào giữa những năm 1970, thì việc giảm thiểu bệnh tật, cái chết, và tăng chi phí chăm sóc sức khỏe tốt nhất có thể đạt được thông qua việc tập trung vào nâng cao sức khỏe và phòng chống bệnh tật. Trung tâm của các phương pháp tiếp cận mới là vai trò của nhà giáo dục y tế.[2]. Một nhà giáo dục sức khỏe là "một cá nhân được đào tạo chuyên nghiệp và tham gia phục vụ trong một loạt các vai trò khác nhau và được huấn luyện đặc biệt để sử dụng được các chiến lược giáo dục thích hợp và phương pháp để tạo thuận lợi cho sự phát triển của chính sách, thủ tục, biện pháp, và các hệ thống có lợi cho sức khỏe của các cá nhân, nhóm và cộng đồng "(Ủy ban Hỗn hợp về ngữ, 2001, p. 100). Vào tháng 1 năm 1978, Dự án Phân định vai trò đã được đặt vào vị trí, để xác định vai trò và trách nhiệm cơ bản cho các nhà giáo dục sức khỏe. Kết quả là một khuôn khổ cho sự phát triển dựa trên Chương trình giảng dạy cho Sinh viên chuyên lĩnh vực Giáo dục sức khỏe (NCHEC, 1985). Một kết quả thứ hai là một phiên bản được chỉnh sửa của Khung Competency-Based cho phát triển chuyên môn của chuyên gia chứng nhận Giáo dục sức khỏe (NCHEC, 1996). Những tài liệu này được nêu trong 7 lĩnh vực trách nhiệm được hiển thị dưới đây.
Nền tảng cho việc lập kế hoạch chương trình
Những vấn đề sức khỏe còn tồn tại trong cộng đồng
Các nguồn lực cộng đồng sẳn có để giải quyết vấn đề
Thu thập dữ liệu và phân tích một cách khoa học
Được dựa trên việc đánh giá về các nhu cầu sức khỏe thực hiện cho cộng đồng
Sự phát triển của các mục tiêu, mục đích cụ thể và có thể đánh giá được
Tiếp tục phát triển để đáp ứng các mục đích và mục tiêu đã đề ra
Chiến lược được thực hiện khi nó đủ mạnh, đủ hiệu quả và có một cơ hội hợp lý để giải quyết các kế hoạch đã niêu
Được dựa trên một sự hiểu biết đầy đủ về nhóm đối tượng vấn đề ưu tiên
Một loạt các kỹ thuật, phương tiện và phương pháp giáo dục Giáo dục sức khỏe
Về việc lập, sử dụng các kiểm tra, khảo sát, quan sát, theo dõi hay các phương pháp khác nhằm mục đích thu thập dữ liệu
Nhà giáo dục sức khỏe sử dụng các nghiên cứu để cải thiện hoạt động cho chương trình.
Thường là một chức năng nhiệm vụ của các những người có kinh nghiệm
Tạo điều kiện hợp tác giữa các nhân viên cả trong và giữa các chương trình.
Là xác định các nội dung GDSK, lựa chọn phương tiện, phương pháp một cách khoa học, làm cho các nội dung này phù hợp với từng đối tượng giáo dục, từng cộng đồng.
Giáo dục sức khỏe nhằm giúp mọi người biết loại trừ và hạn chế các yếu tố tác hại đến sức khỏe và tạo nên cá yếu tố nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe. Như vậy nội dung của giáo dục sức khỏe rất rộng, nó bao gồm các vấn đề liên quan đến sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và sức khỏe xã hội. Giáo dục sức khỏe không chỉ bao gồm giáo dục về phòng bệnh, phát hiện bệnh, điều trị bệnh, phục hồi sức khỏe mà còn nhằm nâng cao sức khỏe. Giáo dục sức khỏe không phải chỉ cho các cá nhân mà cho cả tập thể cộng đồng, cho cả người ốm và người khỏe. Tuy vậy, một số nội dung ưu tiên cần được giáo dục dưới đây.
Việc lập kế hoạch Giáo dục sức khỏe được tiến hành theo các 8 bước sau:
Có nhiều quốc gia đã phát triển một chương trình giảng dạy Giáo dục sức khỏe, như:
Từ năm 2001, Bộ Giáo dục, Nghiên cứu, Thanh niên và Thể thao đã phát triển một chương trình quốc gia về Giáo dục Y tế. Chương trình Giáo dục Y tế Quốc gia Rumani trường được coi là một ưu tiên cho sự can thiệp của Quỹ Toàn cầu (Global Fund) và các cơ quan của Liên Hợp Quốc.
Shokuiku (Kanji: 食育) là Nhật ngữ cho "thực phẩm giáo dục". Pháp luật định nghĩa nó là "thu nhận kiến thức về thực phẩm và dinh dưỡng, cũng như khả năng thực hiện các quyết định thích hợp thông qua kinh nghiệm thực tế với thực phẩm, với mục đích phát triển khả năng sống trên một người dân khỏe mạnh chế độ ăn uống".
Nó được khởi xướng bởi SAGEN Ishizuka, một bác sĩ quân đội nổi tiếng và tiên phong của chế độ ăn chay. Sau sự ra đời của phương Tây thức ăn nhanh trong những năm cuối thế kỷ 20, chính phủ Nhật Bản bắt buộc giáo dục về dinh dưỡng và thực phẩm nguồn gốc, bắt đầu với các Luật cơ bản của Shokuiku vào năm 2005, và theo sau với Luật Sức khỏe trường trong năm 2008. Các trường Đại học đã thành lập các chương trình giảng dạy shokuiku trong các trường công lập, cũng như điều tra hiệu quả của nó thông qua các nghiên cứu học thuật.
Mối quan tâm lớn đã dẫn đến sự phát triển của pháp luật shokuiku bao gồm:
Giáo dục sức khỏe ở Ba Lan là không bắt buộc, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngay cả với cấy của giáo dục sức khỏe mà thanh thiếu niên của Ba Lan vẫn không chọn sống một lối sống khỏe. Giáo dục sức khỏe vẫn còn cần thiết ở Ba Lan, nhưng các yếu tố của những gì là thực sự có sẵn, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn, và những gì là giá cả phải chăng ảnh hưởng đến các quyết định nhiều hơn những gì là lành mạnh.
Các Giáo dục sức khỏe tại Đài Loan tập trung vào nhiều chủ đề, này bao gồm nhưng không giới hạn.
Giáo dục cho học sinh để tăng cường sức khỏe của nó satue giúp các bậc cha mẹ sử dụng các nguồn lực y tế, thông tin Dạy học sinh hiểu được các bệnh cụ thể và kiến thức y tế cơ bản được biết giúp thanh thiếu niên để xử lý các vấn đề tiền tệ, những người như kinh nguyệt, cương cứng.
Ở Việt Nam từ trước đến nay hoạt động giáo dục sức khỏe đã được thực hiện dưới các tên gọi khác nhau như: tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền giáo dục sức khỏe, giáo dục vệ sinh phòng bệnh.