- 1. Phủ Gia Định![6] phủ Gia Định! Nhà đủ người no chốn chốn,
- Xứ Sài Gòn! xứ Sài Gòn! Ở ăn vui thú nơi nơi.
- 2. Lạc thổ[7] nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc [8],
- Kim thành[9] xây tám hướng: càn khảm cấn tốn ly khôn đoài.[10].
- 3. Lợi đất thinh thinh[11] xóm Vườn Mít[12]
- Bầu trời vòi vọi núi Mô Xoài[13].
- 4. Đông đảo thay phường Mỹ Hội[14],
- Sum nghiêm bấy làng Tân Khai.[15]
- 5. Ngói lợp vẩy lân [16], phố thương khách nhà ngang nhà dọc,
- Hiên che[17] cánh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài.
- 6. Gái nhơ nhởn tay vòng tay xuyến,[18]
- Trai xênh xang chơn hớn chơn hài [19].
- 7. Dù võng nghênh ngang chợ Điều Khiển[20]
- Quan quân rậm rật cầu Khâm Sai[21].
- 8. Kẻ vào Chợ Quán, ra Bến Nghé [22],
- Người xuống Nhà Bè[23] lên Đồng Nai.
- 9. Coi ngoài rạch Bà Nghè[24], dòng trắng hây hây tờ quyến trải[25],
- Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt lá chàm rai[26].
- 10. Dưới bến hát lẳng lơ, giọng con đò, giọng con rổi,
- Trên bờ ca khỏng khảnh, tiếng thằng mục, tiếng thằng nài [27].
- 11. Chợ Cây Da thằng Mọi, coi bán đủ thuốc xiêm, cau mứt [28],
- Cái rạch cầu Con Miên[29], thấy làm nguyên cột vắp, ván trai[30].
- 12. Trên Cây Da Còm [31], nỡ để ông già đầu đội[32]
- Dưới đường đi cầu Khắt[33], bỏ chi con trẻ lạc lài (loài).
- 13. Đường Nước Nhỉ[34] đất tiu tiu, người thương khách lại qua mát mẻ,[35]
- Quán Nước lên[36] dòng cuồn cuộn, kẻ bộ hành tắm giặt nghỉ ngơi[37].
- 14. Kho Cẩm Thảo chứa thuế vua, mạch nước sữa dân [38] Mạch nước sữa dân ai dám phá,
- Chùa Kim Chương[39] làm tôi Phật tương chua muối mặn sãi trường chay.
- 15. Kinh Gạo[40], người bán gạo, lưng vơi chẳng dám điều hết kiếp,
- Chợ Rau, kẻ buôn rau, mắc rẻ ở ăn cái đồng nài[41].
- 16. Trong làng Cây Gõ[42], nhà bền rường cột,
- Ngoài chợ Cây Vông[43], chất đống chông gai.
- 17. Nhắm kinh Mới[44] như chỉ giăng đường đất,
- Đi chợ Hôm[45] vừa tối sập mặt trời.
- 18. Chùa Cẩm Đệm[46] nên nghiêm, rực rực thấy thầy nằm nệm gấm,
- Xóm Hoa Nương [47] đua nở, dầy dầy coi khách bẻ ngụy người.
- 19. Trong Chợ Lớn[48] thinh thinh, góp nhóp bốn phương đủ hết loài rừng vật biển,
- Trên cầu Quan[49] lồ lộ, lại qua mấy phía, thảy đều chú đội cậu cai.
- 20. Giếng Bà Nhuận[50] mạch cam tuyền, trai gái thảy thỏa tình khát vọng,
- Cầu Bà Thuông[51] đường quan lộ, gần xa đều phỉ chí quy lai.
- 21. Chói chói bấy! chùa Ông Quan Đế[52], chí trung nghĩa cao xa ngàn thuở,
- Thăm thẳm thay! miếu Đức Thánh Nhân[53] mối tư văn[54] dựng để muôn đời.
- 22. Nhìn thấy chùa Ông Bổn Đầu Công[55], dám quên chữ ngọn rau tấc đất,
- Ngó thấy miếu Công Thần[56] chư vị, chạnh tưởng câu niềm chúa nghĩa tôi.
- 23. Kẻ lâm dâm vái Bà Chúa Thai Sanh[57], xin mẹ tròn con vuông, chẳng sanh trai thời sanh gái,
- Người ký cúc lạy chùa Bà Mã Hậu[58], xin thuận buồm xuôi gió, đi đến chốn về đến nơi.
- 24. Cắc cớ[59] chợ Lò Rèn[60], chát chát tựa nhà Ban[61] đánh búa,
- Lạ lùng xóm Lò Gốm[62], chạy vo vo như Bàn Cổ [63] xây trời.
- 25. Khỏi lo bề lẩm nhẩm dầm sương, rong vát người đi đường chợ Sỏi[64],
- Hằng lấy kẻ gầu hào, xúc ốc, nồng nã kẻ ở xóm Lò Vôi[65].
- 26. Gắng gỏi bấy cho đàn bà xứ Gò Vấp[66]
- Thanh thao thay hình hòa thượng chùa Cây Mai[67]
- 27. Giếng Hàng Xáo[68] múc dập dìu, kẻ chở thuyền người chuyên bộ,
- Xóm Cối Xay [69] làm tở mở, chồng sửa họng vợ đục tai.
- 28. Trong Cầu Đường[70] bào chuốt ngọt ngon, đủ đường phổi, đường cát, đường phèn, đường hạ,
- Ngoài Xóm Bột[71] phơi phong trắng dã, nhiều bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai.
- 29. Đồng Tập Trận [72] rộng cả ngàn, coi xấp xỉ bằng Thái Nguyên dã,[73]
- Gò Mô Súng [74] cao lúp xúp,
- Nhằm sâm si nửa tợ Vọng Vân Đài [75]
- 30. Chốn thi trường[76] lẩy lẩy nho sinh, đều nhắm cánh hộc hồng, một thuở bảng vàng lăm chiếm,
- Nhà quốc học dầy dầy sĩ tử, gắng gia công đèn sách, mười thu nghiêng sắt chuyên mài.
- 31. Cầu Cây Gõ[77] trầy trầy, hốt gẫn hổ ngươi cho cái cầu Ông Bỉnh,
- Quán cao lâu vòi vọi, đành hay mắc cỡ cho cái quán Bà Cai[78].
- 32.Trước phố phường bày hàng bày hóa
- Sau nhà quê trồng bắp trồng khoai.
- 33. Thuyền An Nam lui tới, ghe đen mũi ghe vàng mũi [79] vào ra coi lòa nước,
- Người phương Đông qua lại, tàu xanh mang, tàu đỏ mang hàng hóa chất ngất trời.
- 34. Trọ trẹ ở dưới sông, quân Huế kéo nhau hò "hố hụi"
- Lô xô dầy trên chợ, khách già lạu chèo ỏi "ài ô".
- 35. Lều thầy bói[80] cắm bên đường, thấy gieo tiền hào[81] sách hào đơn mà quyết đoán quẻ rằng linh quẻ,
- Bọn quân phường ngồi dưới cội, nghe đổ sứa hồi khoan hồi nhặt, giọng dầy vang hơi thiệt tốt hơi[82].
- 36. Phiêu diêu cho chú ở dưới ghe, nghề nghiệp ruổi đầu sông đổi nước,
- Cắc cớ bấy ông ngồi trên trại, máy móc làm cái ống dòm trời.
- 37. Lũ Tây dương da trắng bạc, mồm giợt giạt, miệng dứt lác[83], tóc quăn co, tưởng thần qủy, thần ma, thần sát,
- Quân Ô-rô mặt đen thui, môi tếch tác, đầu quăn chít, ngỡ thiên bồng, thiên tướng, thiên lôi [84]
- 38. Con bưng rổ te te chạy vát,
- Thằng cầm chèo hất hất đứng coi.
- 39. Lính nghèo ngoài cửa kéo chổng khu, tội báo ham vui chơi con thỏa,
- Trùm ruộng trong ghe xui mất của, thương vì vác mặt ngó cái đòi.
- 40. Nhiều nhà giàu một lạ một lùng, có kẻ giàu dư muôn dư triệu,
- Mấy ai khó cho bần cho thiểu, khó không trơn bề đất cắm dùi.
- 41.Chốn chốn phong hoa ca vịnh[85]
- Nhà nhà lịch sự vui chơi.
- 42.Lũ bảy đoàn ba, rật rật thấy ban mai khách trúc,
- Kẻ qua người lại, dầy dầy nghe lạc ngựa chuông voi.
- 43. Nhắm cảnh vật lịch ư quá lịch,
- Nhìn phong quang vui rất đổi vui.
- 44. Muốn nói mà chẳng hay vừa hết,
- Muốn coi mà chẳng hay vừa thôi.
- 45. Tôi nay học còn muốn học,
- Tài hãy sơ tài.
- 46. Mặt thấy dân khang vật phụ[86],
- Tình ưng xúc cảnh hứng hoài[87]:
- Bỡ ngỡ lầy tây xế bóng hường,
- Trông chừng non nước chạnh quân vương.
- Lơ thơ nội lục cây mờ khói,
- Man mác non xanh lá đượm sương.
- Đèn thỏ mãi chờ miền hải đảo,
- Thuyền ngư vắng nhóm bãi Tiêu Tương[88].
- Lẽ hằng đắp đổi theo hôm sớm,
- Cơn cớ chi người luống chạnh thương.
|