Danh pháp của họ cá này, Pseudochromidae, được ghép từ 2 âm tiết trong tiếng Hy Lạp: ψευδής (pseudḗs, "giả", "sai khác") và χρόμις (khrómis, một loài cá chưa xác định, có lẽ là tương tự như cá vược).[4] Danh pháp Chromidae có thể là đồng nghĩa của Pomacentridae hoặc Cichlidae,[8] trong khi các danh pháp Chromis và Chrominae tương ứng là chi và phân họ trong họ Pomacentridae.[7][9]
Pseudochromidae phân bố ở các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, hiếm khi được tìm thấy ở những vùng nước lợ. Chúng thường sống tập trung ở nơi có nhiều rạn san hô hoặc núp trong những khe đá ngầm[4].
Hầu hết các thành viên trong họ Pseudochromidae đều có kích thước nhỏ (dưới 10 cm), có loài dài chưa được 2 cm[10]. Tuy nhiên, loài có kích thước lớn nhất của Pseudochromidae được biết tới nay là loài Congrogadus subducens, với chiều dài của thân là khoảng 45 cm.[4][11] Pseudochromidae thường có nhiều màu sắc sặc sỡ; nhiều loài có thể thay đổi màu sắc khi di chuyển đến nơi khác.[7] Pseudochromidae là các loài dị hình giới tính rõ rệt, có thể phân biệt qua màu sắc trên cơ thể.[7]
Pseudochromidae có cơ quan đường bên không hoàn thiện, là một đặc điểm phân biệt chúng với các họ cá khác.[4][7][10] Vây bụng có thể vắng mặt ở một số loài, có một ngạnh với khoảng 3 - 5 vây tia. Vây lưng có 21 - 37 vây tia mềm, trong khi vây hậu môn có 13 - 21 vây tia mềm.[7]
Thức ăn của Pseudochromidae chủ yếu là rong tảo, những loài cá nhỏ hơn và động vật giáp xác.[4][7] Cá đực có trách nhiệm bảo vệ bọc trứng được gửi bởi cá cái cho đến khi trứng nở sau khoảng một tuần. Một số loài có tập tính ấp trứng bằng miệng.[4]
^Nguyễn Thành Huy & Nguyễn Văn Long. Viện Hải dương học Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam. 2013. Thành phần loài và phân bố của quần xã cá trên vùng triều Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế "Biển Đông 2012" (Proceedings of the International Conference on "Bien Dong 2012") 12-14/9/2012, tr. 46-57.
^Nguyễn Văn Quân & Nguyễn Đức Thế, 2014. Thành phần loài cá rạn san hô vùng biển Việt Nam. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Đại học Nha Trang. Số 3: 90-95.
^Ricardo Betancur-R., Richard E. Broughton, Edward O. Wiley, Kent Carpenter, J. Andrés López, Chenhong Li, Nancy I. Holcroft, Dahiana Arcila, Millicent Sanciangco, James C Cureton II, Feifei Zhang, Thaddaeus Buser, Matthew A. Campbell, Jesus A Ballesteros, Adela Roa-Varon, Stuart Willis, W. Calvin Borden, Thaine Rowley, Paulette C. Reneau, Daniel J. Hough, Guoqing Lu, Terry Grande, Gloria Arratia, Guillermo Ortí, 2013, The Tree of Life and a New Classification of Bony Fishes, PLOS Currents Tree of Life. 18-04-2013. Ấn bản 1, doi:10.1371/currents.tol.53ba26640df0ccaee75bb165c8c26288
^C. L. Camp, S. P. Welles & Morton Green, Museum of Paleontology, University of California, Berkeley, California. 1949. Bibliography of Fossil Vertebrates 1939-1943. - Systematic Index. Tr. 263. The Geological Society of America Memoir 37.
Những trận đánh lồng ghép trong triết lí của các nhân vật, những thần thoại từ ở phía Tây xa xôi, những câu bùa chú cùng tuyến nhân vật đã trở nên kinh điển