Họ Hà mã | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: Thế Miocen - Thế Holocene | Đầu|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Artiodactyla |
Phân bộ (subordo) | Whippomorpha |
Họ (familia) | Hippopotamidae (Gray, 1821)[1] |
Phân họ và chi | |
Họ Hà mã (Hippopotamidae) là một họ gồm các loài động vật có vú guốc chẵn gọi là hà mã (tiếng Anh: Hippo hoặc Hippopotamus). Chúng sống nửa cạn nửa nước, mập mạp, da trần, sở hữu dạ dày ba ngăn, và đi bằng bốn ngón chân trên mỗi bàn chân. Mặc dù chúng nhìn giống với loài lợn về mặt sinh lý, họ hàng gần nhất của chúng là các loài trong Bộ Cá voi. Hà mã là những thành viên còn sinh tồn duy nhất của họ này. Họ này được Gray miêu tả năm 1821.
Có 2 loài hà mã trong hai chi: hà mã lùn (Choeropsis liberiensis) ở các khu rừng phía tây châu Phi, và hà mã thông thường (Hippopotamus amphibius).
Phân loại trong bài lấy theo Boisserie (2005)[2], lưu ý rằng Boisserie coi Hippopotamus minor như là Phanourios minutus, nhưng chi này nói chung không được công nhận rộng khắp.