Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Tàu sân bay hộ tống HMS Striker (D12)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Prince William |
Xưởng đóng tàu | Western Pipe and Steel Company, San Francisco, California, |
Đặt lườn | 15 tháng 12 năm 1941 |
Hạ thủy | 7 tháng 5 năm 1942 |
Nhập biên chế | 28 tháng 4 năm 1943 |
Xếp lớp lại |
|
Số phận | Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh |
Lịch sử | |
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Striker |
Nhập biên chế | 18 tháng 5 năm 1943 |
Xuất biên chế | 12 tháng 2 năm 1946 |
Xóa đăng bạ | 28 tháng 3 năm 1946 |
Số phận | Hoàn trả cho Hoa Kỳ; bị tháo dỡ 5 tháng 6 năm 1948 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp Attacker |
Trọng tải choán nước | 14.400 tấn (tiêu chuẩn) |
Chiều dài | 149,8 m (491 ft 6 in) |
Sườn ngang | 32 m (105 ft) |
Mớn nước | 7,9 m (26 ft) |
Công suất lắp đặt | 8.500 mã lực (6,3 MW) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 33,3 km/h (18 knot) |
Thủy thủ đoàn | 646 |
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo | 20 |
Hệ thống phóng máy bay | 2 × thang nâng |
HMS Striker (D12), nguyên là tàu sân bay hộ tống Prince William (CVE-19) (ký hiệu lườn ban đầu AVG-19 và rồi là ACV-19) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Bogue, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai như một chiếc thuộc lớp Attacker.
Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 12 năm 1941 như một tàu hàng kiểu C3-S-A2 (số hiệu đóng tàu 198), theo hợp đồng với Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ; và được chế tạo bởi hãng Western Pipe and Steel Company tại San Francisco, California. Nó được chuyển cho Anh Quốc theo chương trình Cho thuê-cho mượn dưới tên gọi HMS Striker (D12), được hạ thủy vào ngày 7 tháng 5 năm 1942; được xếp lại lớp thành ACV-19 vào ngày 20 tháng 8 năm 1942. Nó được bàn giao cho Hải quân Hoa Kỳ ngày 28 tháng 4 năm 1943; được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 18 tháng 5 năm 1943.
Striker được xếp lại lớp thành CVE-19 vào ngày 15 tháng 7 năm 1943. Nó phục vụ cùng với Hải quân Hoàng gia trong suốt thời gian còn lại của Thế Chiến II.
Chiếc tàu sân bay được hoàn trả cho Hoa Kỳ tại Norfolk vào ngày 12 tháng 2 năm 1946. Nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 28 tháng 3 năm 1946, và được bán cho hãng Patapsco Steel Scrap Co. tại Bethlehem, Pennsylvania vào ngày 5 tháng 6 năm 1948 để tháo dỡ.