Imelda Marcos

Imelda Marcos
Chức vụ
Nhiệm kỳngày 30 tháng 12 năm 1965 – ngày 25 tháng 2 năm 1986
Tiền nhiệmEva Macapagal
Kế nhiệmAmelita Ramos
Dân biểu Hạ viện Philippines từ Đơn vị bầu cử Ilocos Norte
Nhiệm kỳngày 30 tháng 6 năm 2010 – 
Tiền nhiệmFerdinand Marcos, Jr.
Nghị sĩ Hạ viện Philippines từ đơn vị bầu cử số hai của Leyte
Nhiệm kỳngày 30 tháng 6 năm 1995 – ngày 30 tháng 6 năm 1998
Tiền nhiệmCirilo Roy Montejo
Kế nhiệmAlfred Romuáldez
Nhiệm kỳngày 12 tháng 6 năm 1978 – ngày 5 tháng 6 năm 1984
Nhiệm kỳngày 27 tháng 2 năm 1975 – ngày 25 tháng 2 năm 1986
Kế nhiệmJejomar Binay
Nhiệm kỳ1978 – 1986
Tiền nhiệmAntonio Villarama
Kế nhiệmMita Pardo de Tavera
Nhiệm kỳ1978 – 1986
Thông tin cá nhân
Quốc tịchPhilippines
Sinh2 tháng 7, 1929 (95 tuổi)
Manila, Philippines
Nơi ởMakati
Nghề nghiệpĐại sứ
Tôn giáoCông giáo La Mã
Đảng chính trịKilusang Bagong Lipunan (1978–nay)
Đảng khácNacionalista (1965-1978; 2009–nay)
Họ hàngBenjamin Romualdez (anh/em trai)
Daniel Z. Romualdez (cháu họ)
Norberto Romuáldez (uncle)
Mariano Marcos (bố chồng)
Pacifico Marcos (anh/em rể)
Con cáiImee
Ferdinand, Jr.
Irene
Aimee

Imelda Remedios Visitación Trinidad Romuáldez-Marcos (sinh ngày 02 tháng 7 năm 1929) là phu nhân của cựu Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos. Bà được mọi người nhớ đến với bộ sưu tập của hơn một nghìn đôi giày của mình. Imelda đã bắt đầu sự nghiệp của mình với nghề ca sĩ và người mẫu địa phương tại Manila trước khi gặp chồng Ferdinand, người sau này sẽ được bầu làm Tổng thống. Sau khi tuyên bố thiết quân luật vào năm 1972, Imelda bắt đầu giữ các chức vụ trong chính phủ quốc gia cho phép bà đi khắp thế giới và tích lũy tác phẩm nghệ thuật và bất động sản. Cặp đôi này củng cố quyền lực của họ cho phép họ chuyển kinh phí từ ngân khố quốc gia ra nước ngoài như các ngân hàng tại Thụy Sĩ.

Tổng thống Marcos bị buộc tội ám sát Benigno Aquino, Jr., dẫn đến các cuộc cách mạng quyền lực dân buộc Marcos từ chức và phải sống lưu vong ở Hawaii. Sau cái chết của Ferdinand, Imelda và gia đình đã được Corazon Aquino ra lệnh ân xá. Bà trở lại Philippines và được cho phép trở lại diễn đàn chính trị. Bà được bầu vào Hạ viện năm 2005 đại diện cho Leyte và được bầu lại năm 2010 đại diện cho Illocos Norte.

Mặc dù phải đối mặt với nhiều trường hợp liên quan đến cáo buộc tham nhũng, bà đã không bị giam giữ và tiếp tục sử dụng quyền lực. Khả năng sinh tồn qua những thăng trầm trong cuộc sống của bà đã khiến bà được gọi là "Bướm thép".

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Imelda Remedios Visitación Romuáldez sinh ngày 2 tháng 7 năm 1929 ở Manila, Philippines,[1] Tổ tiên của bà là một gia đình địa chủ tại Tolosa, Leyte, hậu duệ của Granada, Andalusia, Tây Ban Nha.[2] Bà có năm anh chị em: Benjamin (1930–2012),[3] Alita, Alfredo, Armando, và Concepcion trải qua thời thơ ấu ở San Miguel. Sau khi mẹ bà mất năm 1938, gia đình đã chuyển đến Tacloban,[4] nơi những đứa trẻ được người hầu Estrella Cumpas chăm sóc.[5][6][7] Bà tuyên bố đã gặp Douglas MacArthur khi ông đến Tacloban cuối thế chiến II.[8][8][9]

Theo thỉnh cầu của người cháu họ bà, Daniel, Romuáldez đã quay lại Manila thập niên 1950, nơi bà làm trong một cửa hàng âm nhạc trên phố Escolta với công việc là ca sĩ để thu hút khách.[10] Bà đã theo học khóa luyện giọng tại nhạc viện của Đại học Santo Tomas.[10] Romuáldez sau đó tham dự cuộc thi sắc đẹp Miss Manila và bà đạt giải nhì nhưng được tôn là Muse of Manila sau khi có tranh cãi về kết quả.[11][12] Bà có thời kỳ ngắn hẹn hò với Benigno Aquino, Jr..[4][10] Ngày 1/5/1954, Romuáldez đã kết hôn với Ferdinand Marcos, một nghị sĩ đảng Nacionalista từ Ilocos Norte.[13] Họ có với nhau 4 đứa con: Imee, Bongbong, và Irene, và một cô con gái nuôi tên Aimee.[10]

Đệ nhất phu nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Ferdinand Marcos được bầu làm tổng thống thứ 10 của Philippines vào ngày 9 tháng 11 năm 1965, và Imelda trở thành đệ nhất phu nhân.[14] Trong những năm đầu của nhiệm kỳ tổng thống Marcos, Imelda đã có các cuộc đụng độ với The Beatles[15] và với Dovie Beams.[16][17][18] Ngày 23 Tháng 9 năm 1972, Ferdinand tuyên bố thiết quân luật.[19] Là đệ nhất phu nhân, Imelda đã được gọi là "nửa kia của cặp vợ chồng độc tài".[20][21] Bà cũng là một là bậc thầy cúa sự xa hoa trong nghệ thuật và văn hóa.[22] Vào ngày 7 tháng 12 năm 1972, một kẻ tấn công đã cố gắng đâm Imelda bằng một con dao bolo nhưng đã bị cảnh sát bắn chết.[5]

Sau khi Ferdinand đã củng cố quyền lực của mình, Imelda đã tổ chức các sự kiện công cộng sử dụng quỹ quốc gia để đánh bóng hình ảnh của vợ chồng bà.[5][23] William H. Sullivan đã viết rằng bà đã có đủ quyền lực để có thể ép buộc các tướng lĩnh Philippine phải mặc quần áo cải trang tại các bữa tiệc sinh nhật của bà.[24] Imelda đã đưa Hoa hậu Hoàn vũ toàn thế giới năm 1974 về Manila, với nơi tổ chức sự kiện trên là Nhà hát dân gian Nghệ thuật được xây dựng trong vòng chưa đầy ba tháng.[25] Bà cũng đã tổ chức Kasaysayan ng Lahi, một lễ hội quảng bá lịch sử Philippines.[26][27] Imelda cũng khởi xướng các chương trình xã hội, chẳng hạn như cuộc Cách mạng xanh, với nỗ lực giải quyết nạn đói bằng cách khuyến khích nhân dân trồng rau trong vườn hộ gia đình, và tạo ra một chương trình kế hoạch hoá gia đình cấp quốc gia.[28] Trong thời gian đầu thập niên 1970, bà mất kiểm soát việc phân phối bánh mì gọi nutribun, mà thực sự đến từ Hoa Kỳ Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID).[29][30]

Imelda được bầu vào quốc hội Philippines năm 1978 làm thành viên Batasang Pambansa lâm thời đại diện cho Vùng IV-A và cũng được bổ nhiệm là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, cho phép bà đi Hoa Kỳ, Liên Xô, Libya, Nam Tư, Iraq, và Cuba.[31] Nhờ những lần đi lại này,[32][33][34][35][36][37][38] Imelda đã thành bạn của Richard Nixon, Muammar Gaddafi, Saddam Hussein, Fidel Castro, và Joseph Tito.[39][40] Một công hàm ngoại giao Wikileaks "tuyên bố rằng bà đợi nhà độc tài Tây Ban Nha Franco qua đời để bà có thể bay qua Madrid dự đám tang."[41] Imelda tuyên bố bà cần đi nhiều để đảm bảo dầu mỏ từ IraqLibya, mà bà cũng cho rằng bà có vai trò lớn trong việc ký hiệp định hòa bình với Mặt trận Giải phóng Dân tộc Moro.[42][43] Ngoài chức vụ đại sứ, Imelda cũng giữ chức Bộ trưởng Bộ Định cư, cho phép bà xây dựng Trung tâm văn hóa của Philippines, Trung tâm Tim Philippines, Trung tâm Phổi Philippines, Trung tâm Hội nghị Quốc tế Philippines, Cung điện dừa, và Trung tâm phim Manila.[5] Imelda mua một số tài sản ở Manhattan trong năm 1980, trong đó có Crown Building 51 triệu Mỹ kim, Woolworth Building40 Wall Street, và Trung tâm Herald 60 triệu Mỹ kim.[44] Bà từ chối mua Empire State Building với giá 750 triệu Mỹ kim vì bà xem đó là "quá phô trương." [45]

Quyền lực nhân dân

[sửa | sửa mã nguồn]

Imelda có vai trò lớn trong vụ trục xuất năm 1980 đối với nhà lãnh đạo đối lập Benigno Aquino, Jr., người bị bệnh tim trong khi ở tù.[46] Thiết quân luật sau này đã được dỡ bỏ năm 1981 nhưng Ferdinand tiếp tục làm tổng thống.[18]

Trong khi chồng bà bắt đầu bị lupus ban đỏ, Imelda đã điều hành công việc của chồng trên thực tế.[5] Aquino trở lại vào năm 1983 nhưng đã bị ám sát tại sân bay quốc tế Manila khi ông về đến sân bay.[47] Với những lời buộc tội chống lại Imelda bắt đầu gia tăng, Ferdinand lập ra Ủy ban Agrava, một ủy ban tìm hiểu thực tế, để điều tra bà, cuối cùng kết luận bà không có tội.[23][48][48][49]

Ngày 07 tháng 2 năm 1986, các cuộc bầu cử đột xuất được tổ chức giữa Ferdinand và Corazon Aquino, người góa phụ của Benigno Aquino Jr..[5] Mặc dù chồng bà dường như giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, các cáo buộc gian lận trong cuộc bỏ phiếu đã dẫn đến các cuộc biểu tình mà sau này được biết đến như là cách mạng sức mạnh nhân dân.[50] Ngày 25 tháng 2, Imelda và gia đình bà chạy trốn đến Hawaii.[5] Sau khi họ rời cung điện Malacañang, người ta tìm thấy bà để lại 15 áo khoác lông chồn vizon, 508 áo dài, 1.000 túi xách,[51] và đôi giày, số lượng chính xác khác nhau theo các ước tính nhưng cho thấy có tới 7.500 cặp đôi.[52] Tuy nhiên, thời gian báo cáo rằng cuộc kiểm phiếu cuối cùng chỉ có 1.060 đôi.[53] Vị trí nơi giày dép và đồ trang sức của bà đã giữ được sau đó bị phá hủy một số đồ bị đánh cắp và một bức tranh của bà đã bị phá hủy bên ngoài Cung điện.[21][45][54][55][56]

Năm 1988, Imelda và Ferdinand Marcos, cùng với Adnan Khashoggi, đã bị xét xử và được đại hội thẩm liên bang tuyên trắng án ở Manhattan qua một cáo buộc biển thủ.[57][58][59] Trong số những người bảo vệ hai vợ chồng này có Gerry Spence,[60] Doris Duke,[61]George Hamilton.[62][63] Ferdinand đã qua đời khi sống lưu vong ở Hawaii vào ngày 28 tháng 9 năm 1989.[23][64][65][66] Tháng 12 năm 1990, Tòa án liên bang Thụy Sĩ phán quyết rằng tiền mặt trong các ngân hàng Thụy Sĩ sẽ chỉ được trả lại cho chính phủ Philippines nếu một tòa án Philippines xét xử Imelda trong một vụ "xét xử công bằng[67]

Sự nghiệp sau này

[sửa | sửa mã nguồn]
Imelda Marcos, 2006.

Ngày 4 tháng 11 năm 1991, tổng thống Philippines đã cho phép Imelda trở lại Philippines.[68][69][70] Năm sau đó, bà chạy đua chức tổng thống trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 11 tháng 5 năm 1992, bà giành vị trí thứ 5 trên 7 ứng viên.[71] Trong cuộc tổng tuyển cử ngày 8 tháng 5 năm 1995, bà được bầu làm nghị sĩ đại diện cho Leyte, dù phải đối mặt với vụ kiện không đủ tư cách nhưng Tòa án tối cao Philippines đã tuyên bà có đủ tư cách.[72] Imelda tranh cử chức tổng thống một lần nữa trong cuộc bầu cử tổng thống Philippines ngày 11 tháng 5 năm 1998 nhưng sau đó đã rút lui để ủng hộ người sau này giành chiến thắng Joseph Estrada.[73] Bà xếp thứ 9/11 ứng viên.[74][75][76][77] Bà được tòa án khu vực Manila tuyên trắng án trong một trong các cáo buộc đút lót do còn nghi ngờ hợp lý.[78][79] Imelda vẫn còn 10 vụ hình sự tồn đọng trước vụ Sandiganbayan.[80]

Imelda chạy đua trong cuộc bầu cử Hạ viện Philippines đại diện khu vực Ilocos của Ilocos Norte trong cuộc bầu cử ngày 10 tháng 5 năm 2010 để thay thế con trai bà,[81] Bongbong, đã chạy đua trong cuộc bầu cử Thượng viện đại diện cho Đảng Nacionalista.[82][83] Bà chiến thắng đối thủ gần nhất với 80% phiếu bầu.[84] Trong nhiệm kỳ của mình, bà giữ chức chủ tịch Các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ ở Hạ viện.[85] Năm 2011, Cục thứ năm của Sandiganbayan đã ra lệnh Imelda trả 280.000 USD trong quỹ của chính phủ mà bà và chồng đã chiếm đoạt từ Cơ quan thực phẩm quốc gia.[86][87][88] Imelda nộp giấy chứng nhận ứng cử của mình vào ngày 03 tháng 10 năm 2012 trong một nỗ lực để làm mới đại diện đơn vị bầu cử thứ hai của Ilocos Norte.[89] Bà chiến thắng trong cuộc bầu cử Hạ viện Philippines ngày 13 tháng 5 năm 2013.[90]

Đầu năm 2013, Nghiệp đoàn quốc tế các nhà báo điều tra tiết lộ con gái bà Imee dính líu trong vụ dịch vụ ngân hàng ở nước ngoài.[91] Imee giúp Imelda giấu tài sản ở quần đảo Virgin thuộc Anh.[92][93] Ngày 17 tháng 10 năm 2013, việc bán hai bức họa của Claude Monet, L'Eglise de VetheuilLe Bassin Aux Nymphéas, đã trở thành một chủ đề của vụ pháp lý ở New York chống lại Vilma Bautista, một người từng là phụ tá của Imelda.[94][95][96] Thư ký của bà bị kết án ngày 6 tháng 1 năm 2014.[97] Ngày 13 tháng 1 năm 2014, ba bộ sưu tập trang sức của bà:[98] bộ sưu tập Malacanang, bộ sưu tập Roumeliotes, và bộ sưu tập Hawaii; cùng với các bức họa của Claude Monet bị chính phủ Philippines tịch thu.[99][100][101][102][103][104][105][106]

Tài sản

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ sưu tập giày của Imelda,[107][108] bao gồm các gót giày Pierre Cardin, nay nằm một phần ở Bảo tàng Quốc gia Philippines và một phần ở bảo tàng giày ở Marikina.[109][110][111] Bão Haiyan đã làm hư nhà tổ tiên bà ở Tacloban, cũng dược sử dụng làm bảo tàng,[112] dù bà còn giữ các ngôi nhà ở Ilocos Norte và Makati, nơi bà sinh sống.[113] Năm 2012, Imelda tuyên bố tài sản ròng của bà là 22 triệu USD và bà đã được xếp hạng là nhà chính trị Philippines giàu thứ nhì sau nhà chính trị và võ sĩ quyền Anh Manny Pacquiao.[114] Imelda tuyên bố tài sản của bà đến từ Yamashita's Gold.[115] Tài sản của bà cũng đã từng có trang sức và bộ sưu tập 175 tác phẩm nghệ thuật,[116] cũng bao gồm các tác phẩm của Michelangelo, Botticelli, Canaletto, Raphael,[117] cũng như của Monet “L’Église et La Seine à Vétheuil” (1881), tác phẩm của Alfred Sisley “Langland Bay” (1887), and Albert Marquet’s “Le Cyprès de Djenan Sidi Said” (1946).[45][118][119][120][121][122][123][124] Năm 2015, một viên kim cương hồng hiếm trị giá 5 triệu USD đã được phát hiện trong bộ sưu tập trang sức của bà.[125][126]

Imelda là một biểu tượng thời trangvăn hóa dân gian.[127][128] Frank De Lima thể hiện bà trong album năm 1988 của ông The Best of De Lima.[129] Năm 1996, Mark Knopfler đã viết bài hát "Imelda", từ album của ông Golden Heart.[130][131][132] Bà đã là chủ đề của phim tài liệu năm 2003 Imelda bởi Ramona S. Diaz trong đó bà được phỏng vấn về cuộc sống của mình khi còn lại đệ nhất phu nhân.[133][134][135][136][137] Ngày 23 tháng 3 năm 2012, Carlos Celdran đã biểu diễn Living La Vida Imelda của ông ở Dubai.[138][138][139][140] Nhà sản xuất Anh Fatboy Slim và nhạc sĩ David Byrne đã tạo ra một album ý tưởng có tên gọi Here Lies Love.[4] Mùa xuân năm 2013, The Public Theater ở New York đã giới thiệu một phiên bản nhạc kịch của album với vai chính Ruthie Ann Miles.[141][142] Đoạn kết sau đó được trình diễn tại The Public Theater ngày 24 tháng 3 năm 2014.[143] Một tác phẩm London đã mở cửa ngày 30 tháng 9 năm 2014 tại Nhà hát Quốc gia Hoàng gia.[144][145] Imelda được gọi là "Bướm thép".[23][146][147][148][149][150][151][152]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Former Philippine First Lady Imelda Marcos Attends Pope Francis' Mass”. NBC News. ngày 17 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.
  2. ^ Kerima Polotan, "Imelda Romualdez Marcos, A Biography of the First Lady of the Philippines", The World Publishing Company, Ohio, 1970.
  3. ^ "Kokoy Romualdez, powerful younger brother of Imelda Marcos, dies at 81". GMA. February 2012.
  4. ^ a b c The Imelda Marcos Story — As Told by David Byrne TIME. ngày 10 tháng 4 năm 2010.
  5. ^ a b c d e f g Ellison, Katherine. Imelda, Steel Butterfly of the Philippines, McGraw-Hill, New York, 1988. ISBN 0-07-019335-5
  6. ^ Francia, Beatriz. Imelda: a Story of the Philippines, Solar Publishing Corporation, Manila, 1992
  7. ^ Rowan, Roy (ngày 29 tháng 3 năm 1979). “Orchid or Iron Butterfly, Imelda Marcos Is a Prime Mover in Manila”. People Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  8. ^ a b FILM CLIPS / Also opening today. San Francisco Gate. ngày 11 tháng 6 năm 2004.
  9. ^ 'Imelda': Don't Cry for Her. The Washington Post. ngày 16 tháng 7 năm 2004.
  10. ^ a b c d Carmen Navarro Pedrosa. The Untold Story of Imelda Marcos, Manila: Bookmark, 1969, p. 3–4.
  11. ^ Imelda Marcos (Filipino Public Figure). Encyclopædia Britannica.
  12. ^ `I'm a magpie for beauty' Lưu trữ 2015-09-26 tại Wayback Machine. The Chicago Tribune. ngày 6 tháng 11 năm 2006.
  13. ^ Staycation guide: Overnight stay in Quiapo. ABS-CBN News. ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  14. ^ The best books on the Philippines: start your reading here. The Guardian. ngày 15 tháng 1 năm 2014
  15. ^ “Beatles to avoid Philippines”. Saskatoon Star-Phoenix. Associated Press. ngày 8 tháng 7 năm 1966. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
  16. ^ Hermie Rotea, Marcos' Lovey Dovie, Liberty Pub. Co., 1983, ISBN 0-918229-00-6.
  17. ^ The Sun-Herald – Philandering dictator added Hollywood star to conquests. The Sun-Herald, ngày 4 tháng 7 năm 2004.
  18. ^ a b The Marcos Dynasty, Sterling Seagrave, author, Harper & Row, New York, 1988, ISBN 0-06-015815-8
  19. ^ "Proclamation 1081 and Martial Law". United States Department of State.
  20. ^ Pineda, DLS (ngày 22 tháng 2 năm 2014). “So you think you love Marcos?”. The Philippine Star. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2015.
  21. ^ a b The Conjugal Dictatorship of Ferdinand Marcos and Imelda Marcos, Primitivo Mijares, author, Union Square Publishing, ISBN 1-141-12147-6
  22. ^ “Imelda Marcos and the 'terno' of her affections”. lifestyle.inquirer.net. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2015.
  23. ^ a b c d The Steel Butterfly Still Soars. The New York Times. ngày 6 tháng 10 năm 2012.
  24. ^ "Ferdinand Marcos, Former Philippines Dictator, Forced Generals To Perform Drag Show, According To WikiLeaks". The Huffington Post. ngày 9 tháng 4 năm 2013.
  25. ^ Cronies and Enemies: the Current Philippine Scene, Belinda Aquino, editor, University of Hawaii, 1982
  26. ^ Kasaysayan ng Lahi [documentary video], Manila: National Media Production Board, 1974
  27. ^ Serin, J.R., A.L. Elamil. D.C. Serion, et al. Ugnayan ng Pamhalaan at Mamamayan. Manila: Bede's Publishing House, Inc., 1979.
  28. ^ Ramona Diaz. Imelda. Ramona Diaz-Independent Television Service, 2003.
  29. ^ Masagana 99, Nutribun, and Imelda's 'edifice complex' of hospitals. GMA News. ngày 20 tháng 9 năm 2012.
  30. ^ Nutrition and Related Services Provided to the Republic of the Philippines. Virginia Polytechnic Institute and State University. September 1979.
  31. ^ Chronology of the Marcos Plunder Lưu trữ 2014-02-26 tại Wayback Machine. Asian Journal.
  32. ^ Walk in her shoes. Canoe.ca. ngày 1 tháng 12 năm 2004.
  33. ^ Imelda Lưu trữ 2014-01-08 tại Wayback Machine. Deseret News. ngày 2 tháng 12 năm 2004.
  34. ^ Short Reviews: Imelda. The Phoenix. August 6–12, 2004.
  35. ^ Movie guide. Christian Science Monitor. ngày 18 tháng 6 năm 2004.
  36. ^ For a Regal Pariah, Despite It All, the Shoe Is Never on the Other Foot. The New York Times. ngày 9 tháng 6 năm 2004.
  37. ^ Review: ‘Imelda’. Variety. ngày 17 tháng 3 năm 2004.
  38. ^ A walk in the shoes of Imelda Marcos. The Boston Globe. ngày 6 tháng 8 năm 2004.
  39. ^ Waltzing with a Dictator: the Marcoses and the Making of American Policy, Raymond Bonner, author, Times Books, New York, 1987, ISBN 0-8129-1326-4
  40. ^ Get to know former First Lady Imelda Marcos on Powerhouse. Power House. GMA Network. ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  41. ^ The Following comments about Mrs. Marcos were made by Jack Anderson on the dates indicated on the Good Morning America broadcast on the ABC Television Network Lưu trữ 2014-02-01 tại Wayback Machine. Wikileaks. ngày 26 tháng 1 năm 1976.
  42. ^ "Witness ties Imelda Marcos to Buildings." The Spokesman-Review. ngày 30 tháng 1 năm 1986.
  43. ^ "Real Estate Agent Gives Evidence of Marcos Buys."The Bulletin. ngày 10 tháng 4 năm 1986.
  44. ^ "Manila After Marcos: Managing a Frail economy; Marco's Mansion Suggests Luxury". The New York Times. ngày 28 tháng 2 năm 1986.
  45. ^ a b c McNeill, David (ngày 25 tháng 2 năm 2006). “The weird world of Imelda Marcos”. The Independent. London. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2006.
  46. ^ Imelda Marcos TalkAsia Transcript. CNN. ngày 24 tháng 1 năm 2007.
  47. ^ "Filipino Women Protest Mrs. Marcos' Extravagance." The Telegraph-Herald. ngày 28 tháng 10 năm 1983.
  48. ^ a b “Sandiganbayan ruling on Ninoy assassination” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  49. ^ “Creating a Fact-Finding Board with Plenary Powers to Investigate the Tragedy Which Occurred on ngày 21 tháng 8 năm 1983”. Presidential Decree No. 1886. Malacanang Palace. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013.
  50. ^ Inside the Palace: The Rise and Fall of Ferdinand and Imelda Marcos, Beth Day Romulo, author, Putnam Publishing Group, New York, 1987, ISBN 0-399-13253-8
  51. ^ “Imeldarabilia: A Final Count”. TIME. ngày 23 tháng 2 năm 1987. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  52. ^ “The day in numbers: $100”. CNN. ngày 7 tháng 11 năm 2006.
  53. ^ “Investigations: Imeldarabilia: A Final Count”. Time. ngày 23 tháng 2 năm 1987. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  54. ^ "The Yamashita Treasure was found by Roxas and stolen from Roxas by Marcos' men."
  55. ^ Morrow, Lance (ngày 31 tháng 3 năm 1986). “Essay: The Shoes of Imelda Marcos”. New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  56. ^ No Apology, It Was a Godly Act – Imelda Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine. ngày 14 tháng 10 năm 1998.
  57. ^ “From the archive, ngày 3 tháng 7 năm 1990: Tears and cheers as Imelda cleared”. The Guardian. ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015.
  58. ^ Judge Delays Hearing for Marcos, Not Wife. The New York Times. ngày 28 tháng 10 năm 1988.
  59. ^ Lubasch, Arnold (ngày 22 tháng 10 năm 1988). “Marcos and wife, 8 others: Charged by US with fraud”. The New York Times. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013.
  60. ^ The Marcos Verdict; Marcos Is Cleared of All Charges In Racketeering and Fraud Case. The New York Times. ngày 3 tháng 7 năm 1990.
  61. ^ Imelda Marcos Acquitted, Again. The New York Times. ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  62. ^ Angelo, Bonnie (ngày 2 tháng 7 năm 1990). “Judge Wapner, Where Are You?”. TIME. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  63. ^ "Imelda Marcos Found Not Guilty: Philippines: The former first lady's late husband was the culpable party, some jurors feel. Khashoggi is also cleared.." Los Angeles Times. ngày 3 tháng 7 năm 1990.
  64. ^ Manila Journal;Queen of the Quirky, Imelda Marcos Holds Court. The New York Times. ngày 4 tháng 3 năm 1996.
  65. ^ ‘Greediest’ list includes Imelda Marcos Lưu trữ 2014-10-27 tại Wayback Machine. Philippine Daily Inquirer. ngày 5 tháng 4 năm 2009.
  66. ^ Imelda Marcos among Newsweek's greediest people. ABS-CBN News. ngày 5 tháng 4 năm 2009.
  67. ^ “Marcos convicted of graft in Manila”. The New York Times. ngày 24 tháng 9 năm 1993. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013.
  68. ^ Imelda Marco Fast Facts. CNN. ngày 24 tháng 1 năm 2013.
  69. ^ Imelda Marcos Has an $829 Billion Idea. Bloomberg Businessweek. ngày 24 tháng 10 năm 2013.
  70. ^ Reid, Robert H. (ngày 3 tháng 11 năm 1991). “A "Roller-Coaster" Life For One Of The World's Most Famous Women”. Associated Press.
  71. ^ “Anti-Corruption Campaigner and General Lead in Early Philippine Returns”. The New York Times. ngày 13 tháng 5 năm 1992. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015.
  72. ^ Imelda Romualdez Marcos v. Crilo Roy Montejo. Republic of the Philippines: Supreme Court. ngày 18 tháng 9 năm 1995.
  73. ^ Tarling, Nicholas (2000). The Cambridge History of Southeast Asia: From World War II to the Present, Volume 4. Cambridge University Press. tr. 293. ISBN 0-521-66372-5. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
  74. ^ "Faces of the week." BBC News. ngày 10 tháng 11 năm 2006.
  75. ^ Presidential Plunder: the Quest for Marcos Ill-Gotten Wealth, Jovito Salonga, author, Regina Publishing Company, Manila, 2001.
  76. ^ Imelda Marcos vs. Sandiganbayan, GR. No. 126995 [Supreme Court Resolution], dated ngày 6 tháng 10 năm 1998
  77. ^ Imelda's crown jewels to go under the hammer BBC News, ngày 13 tháng 5 năm 2003
  78. ^ Sandigan OKs Imelda bid for daily hearings on graft cases. GMA News. ngày 21 tháng 9 năm 2007.
  79. ^ Imelda Marcos innocent of dollar salting. United Press International. ngày 10 tháng 5 năm 2008.
  80. ^ "Editorial Ninoy, home at last Lưu trữ 2014-10-27 tại Wayback Machine." Philippine Daily Inquirer. ngày 21 tháng 8 năm 2008.
  81. ^ "Imelda Marcos bids for seat as Philippine race begins." BBC News. ngày 26 tháng 3 năm 2010.
  82. ^ An audience with the one and only Imelda Marcos. BBC. ngày 27 tháng 5 năm 2010.
  83. ^ INTREVIEW – Philippines' Marcos fights to get wealth back Lưu trữ 2014-02-01 tại Wayback Machine. Reuters. ngày 13 tháng 5 năm 2010.
  84. ^ Bongbong ousted from KBL after joining Nacionalista Party Lưu trữ 2012-09-09 tại Archive.today. Philippine Star.
  85. ^ Imelda Marcos stays as MDG committee chair. ABS-CBN News. ngày 15 tháng 9 năm 2010.
  86. ^ "Philippine court orders Imelda to repay funds" Lưu trữ 2012-03-26 tại Wayback Machine, The Philippine News, Monday, ngày 11 tháng 4 năm 2011 (AFP story)
  87. ^ Unthinkable: Guess who came to Enrile book launch. Philippine Daily Inquirer. ngày 29 tháng 9 năm 2012.
  88. ^ JPE writes his memoir, 'corrects' history. Rappler. ngày 28 tháng 9 năm 2012.
  89. ^ Imelda seeks second term, files COC. ABS-CBN News. ngày 3 tháng 10 năm 2012.
  90. ^ Ilocos Norte. GMA News. ngày 24 tháng 5 năm 2013.
  91. ^ Ferdinand Marcos’ Daughter Tied to Offshore Trust in Caribbean. International Consortium of Investigative Journalists. ngày 3 tháng 4 năm 2013.
  92. ^ “Secret Files Expose Offshore's Global Impact”. ICIJ. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  93. ^ “BIR chief ready to investigate Pinoys with offshore accounts”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015. ngày 15 tháng 6 năm 2013.
  94. ^ Ex-Imelda Marcos aide on trial in NYC for selling Monet work. Philippine Daily Inquirer. ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
  95. ^ "Imelda Marcos’s Ex-Aide Charged in ’80s Art Theft." The New York Times. ngày 20 tháng 11 năm 2012.
  96. ^ PCGG: Gov’t, not Marcos victims, owns Monet painting Philippine Daily Inquirer. ngày 21 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
  97. ^ Ex-Imelda Marcos secretary to be sentenced by NY court. GMA News. ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  98. ^ Imelda loses jewels in the Marcos crown. The Age. ngày 17 tháng 9 năm 2005.
  99. ^ Onetime aide to Imelda Marcos sentenced to up to six year in prison after plotting to sell $32 million Claude Monet painting. The Daily Mail. ngày 14 tháng 1 năm 2014
  100. ^ Show me the Monet: Philippines seeks return of Marcos paintings Lưu trữ 2015-09-24 tại Wayback Machine. Reuters. ngày 14 tháng 1 năm 2014
  101. ^ Aide to former Philippine First Lady sentenced to prison for trying to sell country's art. New York Daily News. ngày 14 tháng 1 năm 2014.
  102. ^ Marcos jewels could be sold after court rules they were ‘ill-gotten’. The Japan Times. ngày 14 tháng 1 năm 2014.
  103. ^ Philippines Seeks Return of Marcos Paintings. Voice of America. ngày 14 tháng 1 năm 2014.
  104. ^ Arroyo detention ‘cruel, unjust,’ says Imelda Marcos. Philippine Daily Inquirer. ngày 23 tháng 1 năm 2014.
  105. ^ Imelda Romualdez Marcos visits Gloria Macapagal Arroyo at hospital detention. GMA News. ngày 23 tháng 1 năm 2014
  106. ^ Imelda describes Arroyo's situation 'inhumane'. ABS-CBN News. ngày 23 tháng 1 năm 2014
  107. ^ Homage to Imelda's shoes. BBC News. ngày 16 tháng 2 năm 2001.
  108. ^ “Global Corruption Report” (PDF). Transparency International. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2009.
  109. ^ Olivier, Amy. “Imelda Marcos' famous collection of 3,000 shoes partly destroyed by termites and floods after lying in storage in the Philippines for 26 years since she exiled”. The Daily Mail. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2012.
  110. ^ "Marcos Kin, Allies Still within Corridors of Power." Bulatlat. September 17–23, 2006.
  111. ^ "Efforts to Recover Assets Looted by Ferdinand Marcos of the Philippines Lưu trữ 2010-12-16 tại Wayback Machine." Intermediate Training Programme on Asset Tracing, Recovery and Repatriation, Jakarta, September 2007.
  112. ^ Yolanda destroys Imelda’s ancestral house in Leyte. GMA News. ngày 19 tháng 11 năm 2013.
  113. ^ My afternoon with Imelda Marcos Lưu trữ 2014-02-14 tại Wayback Machine. Fortune. ngày 9 tháng 1 năm 2014.
  114. ^ Imelda Marcos claims net worth of US$22 million. Taipei Times. ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  115. ^ Marcos widow claims wealth due to 'Yamashita treasure'. The Bulletin. ngày 3 tháng 2 năm 1993.
  116. ^ Marcoses' Silver Sets Record At Auction. The New York Times. ngày 11 tháng 1 năm 1991.
  117. ^ Marcoses' Raphael Sold To Italy for $1.65 Million. The New York Times. ngày 12 tháng 1 năm 1991.
  118. ^ Buettner, Russ (ngày 20 tháng 11 năm 2012). “Imelda Marcos's Ex-Aide Charged in '80s Art Theft”. The New York Times. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013.
  119. ^ Imelda camp mum on Newsweek’s ‘greediest’ tag. GMA News. ngày 6 tháng 4 năm 2009.
  120. ^ What happened to the Marcos fortune?. BBC News. ngày 24 tháng 1 năm 2013.
  121. ^ Philippines May Curb the Pursuit of Marcos’s Wealth. The New York Times. ngày 2 tháng 1 năm 2013.
  122. ^ Philippines mall mogul rakes it in as crisis hits rich: Forbes Lưu trữ 2011-05-20 tại Wayback Machine. Agence France Press. ngày 15 tháng 10 năm 2008
  123. ^ Suharto, Marcos and Mobutu head corruption table with $50bn scams. The Guardian. ngày 26 tháng 3 năm 2004.
  124. ^ Shoes, jewels, and Monets: recovering the ill-gotten wealth of Imelda Marcos. Foreign Policy. ngày 16 tháng 1 năm 2014.
  125. ^ “Philippines revalues jewellery seized from Imelda Marcos in 1986”. The Guardian. ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2015.
  126. ^ Plucinska (ngày 25 tháng 11 năm 2015). “Rare 25-Carat Pink Diamond Discovered in Jewelry Once Owned by Imelda Marcos”. Time magazine. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2015. Chú thích có tham số trống không rõ: |firstJoanna= (trợ giúp)
  127. ^ Imelda Marcos comes into fashion. BBC. ngày 7 tháng 11 năm 2006.
  128. ^ "Imelda Marcos: Style icon, for better and worse." Rappler. ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  129. ^ De Lima, Frank. "Imelda." The Best of De Lima. Pocholinga Productions, 1988.
  130. ^ “Chart Log UK”. Zobbel. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
  131. ^ “Dire Straits given plaque honour”. BBC News. ngày 4 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
  132. ^ McCormick, Neil (ngày 5 tháng 9 năm 2012). “Mark Knopfler: how did we avoid disaster?”. The Telegraph. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
  133. ^ Imelda: The Words Lưu trữ 2016-01-13 tại Wayback Machine. Independent Lens, PBS.
  134. ^ The day I met Imelda Marcos. BBC News. ngày 31 tháng 10 năm 2000.
  135. ^ Director fights for Imelda movie. BBC News. ngày 7 tháng 7 năm 2004.
  136. ^ "Imelda" – Documentary on Imelda Marcos Lưu trữ 2018-10-20 tại Wayback Machine Independent Lens
  137. ^ Her Greatest Admirer: A documentary about Imelda Marcos reveals an extraordinary capacity for self-delusion Lưu trữ 2008-07-24 tại Wayback Machine. TIME, ngày 5 tháng 7 năm 2004
  138. ^ a b Whaley, Floyd (ngày 12 tháng 10 năm 2012). “In Manila, 'Livin' La Vida Imelda!'. New York Times. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  139. ^ Fitzpatrick, Liam (ngày 7 tháng 3 năm 2005). “Walk the Talk”. www.time.com. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  140. ^ Rodriguez. Ces (ngày 26 tháng 3 năm 2012). “Carlos Celdran 'interrogated' in Dubai”. Yahoo News Philippines. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  141. ^ “David Byrne's "Here Lies Love" to Premiere at NYC's Public Theater in April 2013”. Nonesuch Records. ngày 9 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012.
  142. ^ Soloski, Alex (ngày 6 tháng 10 năm 2009). “Imelda Marcus Gets the Ol' Song and Dance at Julia Miles Theater”. The Village Voice. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  143. ^ ‘Here Lies Love’ Will Return to the Public Theater. The New York Times. ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  144. ^ Full cast announced for National's Here Lies Love Lưu trữ 2015-12-22 tại Wayback Machine. ngày 25 tháng 7 năm 2014.
  145. ^ David Byrne tells Imelda Marcos story as disco musical. BBC News. ngày 1 tháng 10 năm 2014,.
  146. ^ At Philippine Safari Park, Serengeti on South China Sea. Bloomberg Businessweek. ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  147. ^ Burton, Sandra, Impossible Dream, Warner Books Inc, New York (1989)
  148. ^ All in the family in Philippine local politics. ngày 24 tháng 4 năm 2007.
  149. ^ Gender Policies And Responses Towards Greater Women Empowerment In The Philippines Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine. University of the Philippines.
  150. ^ The Political Economy of Corruption. July 1997.
  151. ^ "A dynasty on steroids". Sydney Morning Herald. ngày 24 tháng 11 năm 2012.
  152. ^ "The Life of Imelda Marcos, in PowerPoint and Plastic." The New York Times. ngày 21 tháng 3 năm 2006.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu Anime: Saiki Kusuo no Psi-nan
Giới thiệu Anime: Saiki Kusuo no Psi-nan
Khác với một học sinh cao trung bình thường, Saiki Kusuo có nhiều siêu năng lực khác nhau bao gồm thần giao cách cảm và cách không di vật
Cảm nhận về Saltburn: Hành trình đoạt vị của anh đeo kính nghèo hèn
Cảm nhận về Saltburn: Hành trình đoạt vị của anh đeo kính nghèo hèn
Đầu tiên, phim mở màn với những tình huống khá cliché của một cậu sinh viên tên Oliver Quick đang trên hành trình hòa nhập với những sinh viên khác của trường Đại học Oxford
Lịch sử nước biển khởi nguyên - Genshin Impact
Lịch sử nước biển khởi nguyên - Genshin Impact
Thế giới ngày xưa khi chưa có Thần - hay còn gọi là “Thế giới cũ” - được thống trị bởi bảy vị đại vương đáng sợ
Kishou Arima: White Reaper trong Tokyo Ghoul
Kishou Arima: White Reaper trong Tokyo Ghoul
Kishou Arima (有馬 貴将, Arima Kishō) là một Điều tra viên Ngạ quỷ Cấp đặc biệt nổi tiếng với biệt danh Thần chết của CCG (CCGの死神, Shīshījī no Shinigami)