Jennifer Aniston

Jennifer Aniston
Aniston vào năm 2012
SinhJennifer Joanna Aniston
11 tháng 2, 1969 (55 tuổi)
Los Angeles, California, Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • Nhà sản xuất
Năm hoạt động1987–nay
Phối ngẫu
Brad Pitt
(cưới 2000⁠–⁠2005)

Justin Theroux
(cưới 2015⁠–⁠2017)
Cha mẹ
Giải thưởngDanh sách

Jennifer Joanna Aniston (sinh ngày 11 tháng 2 năm 1969) là một diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ. Aniston nổi tiếng nhờ vai diễn Rachel Green trong loạt phim hài kịch tình huống Những người bạn (1994–2004), giúp cô thắng một giải Emmy, giải Quả cầu vànggiải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh. Kể từ khi sự nghiệp thăng tiến vào những năm 1990, cô đã trở thành một trong những nữ diễn viên được trả lương cao nhất trên thế giới[1].

Aniston là con gái của hai diễn viên John AnistonNancy Dow. Cô bắt đầu diễn xuất khi còn nhỏ tuổi với một vai diễn không được công nhận trong bộ phim Mac and Me năm 1988. Cô đóng vai chính lần đầu tiên trong bộ phim hài kinh dị Leprechaun năm 1993. Kể từ đó, cô luôn góp mặt vào chuỗi những bộ phim hài thành công như Office Space (1999), Bruce Almighty (2003), The Break-Up (2006), Marley & Me (2008), Cô vợ hờ (2011), Horrible Bosses (2011), Gia đình bá đạo (2013), Dumplin' (2018) và Murder Mystery (2019). Aniston cũng thủ vai chính trong những bộ phim độc lập nổi tiếng như The Good Girl (2002), Friends with Money (2006) và Cake (2014). Cô quay trở lại truyền hình vào năm 2019, sản xuất và đóng vai chính trong loạt phim Bản tin sáng của Apple TV+, nhờ đó cô đã đoạt một giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh.

Aniston luôn nằm trong danh sách những người phụ nữ đẹp nhất thế giới trên các trang tạp chí. Giá trị tài sản ròng của cô được ước tính vào khoảng 300 triệu USD, và tổng doanh thu phòng vé của cô là hơn 1,6 tỉ USD trên toàn cầu[2]. Cô đã được gắn một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood và là người đồng sáng lập công ty sản xuất Echo Films vào năm 2008. Cô đã từng kết hôn hai lần: lần đầu là với nam diễn viên Brad Pitt, người mà cô đã kết hôn trong 5 năm, và sau đó là nam diễn viên Justin Theroux, cô cưới anh vào năm 2015 rồi ly thân vào năm 2017.

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Aniston sinh ngày 11 tháng 2 năm 1969, tại Sherman Oaks, Los Angeles[3][4] với cha là diễn viên người Mỹ gốc Hy Lạp John Aniston và mẹ là nữ diễn viên Nancy Dow.[3] Một trong những ông cố ngoại của cô, Louis Grieco, là người Ý[5]. Tổ tiên của mẹ cô cũng bao gồm người Anh, người Ireland, người Scotland và một số là người Hy Lạp. Còn tổ tiên của cha cô đến từ đảo Crete. Aniston có hai người anh em cùng cha khác mẹ là John Melick và Alex Aniston.[3] Cha đỡ đầu của Aniston là diễn viên Telly Savalas, một người bạn thân của cha cô.[3][6]

Gia đình cô chuyển đến Thành phố New York khi cô còn nhỏ[3]. Dù cha là một diễn viên truyền hình nhưng cô lại không được khuyến khích xem truyền hình nên Aniston luôn tìm mọi cách để vượt qua sự cấm đoán. Cô theo học một trường Waldorf lúc sáu tuổi.[7] Cha mẹ cô ly hôn khi cô lên chín.[8]

Khi biết đến diễn xuất ở tuổi 11[8], cô đăng kí vào Trường Trung học Âm nhạc & Nghệ thuật và Biểu diễn Nghệ thuật Fiorello H. LaGuardia tại quận Manhattan, nơi cô gia nhập hội kịch của trường[9] và được dạy diễn kịch bởi Anthony Abeson[10]. Cô đã biểu diễn trong hai vở kịch The Sign in Sydney Brustein's Window của Lorraine HansberryBa chị em của Anton Chekhov.[11]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

1988–1993: Những vai diễn đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Aniston lúc đầu làm việc trong sân khấu nhạc kịch off-Broadway cũng như trang trải cuộc sống bằng các công việc bán thời gian như tiếp thị qua điện thoại, phục vụ bàn và đưa thư bằng xe đạp. Năm 1988, cô có một vai nhỏ không được công nhận trong bộ phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng Mac and Me được giới phê bình đánh giá cao. Năm tiếp theo, cô xuất hiện trên chương trình The Howard Stern Show với tư cách là người quảng bá cho hãng Nutrisystem[12], rồi chuyển về Los Angeles.[13]

Aniston tới Hollywood và xuất hiện lần đầu trên truyền hình năm 1990, với vai diễn thường xuyên trong loạt phim Molloy tồn tại trong một thời gian ngắn và trong bộ phim Camp Cucamonga.[14] Cô cũng xuất hiện trong Ferris Bueller, một phiên bản làm lại năm 1986 của bộ phim nổi tiếng Ferris Bueller's Day Off. Tuy nhiên, bộ phim này nhanh chóng bị huỷ bỏ.[15] Aniston sau đó xuất hiện trong hai phim truyền hình hài kém thành công khác là The EdgeMuddling Through, có vai diễn ngắn trong các phim Quantum Leap, Herman's Head, và Burke's Law. Sau một loạt các bộ phim bị huỷ bỏ, cùng với sự xuất hiện của cô trong bộ phim kinh dị bị chế giễu, Leprechaun,[16] Aniston đã nghĩ tới việc ngừng diễn.[15]

1994–2004: Những người bạn và sự công nhận rộng rãi trên toàn thế giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Các kế hoạch của Aniston đã thay đổi sau khi thử vai cho Những người bạn, một bộ phim hài kịch tình huống được dự định phát trên NBC từ mùa thu năm 1994–1995.[17] Các nhà sản xuất ban đầu chỉ muốn Aniston thử vai cho vai diễn Monica Geller,[17] nhưng Courteney Cox là người hợp nhất với vai Monica. Vì thế, Aniston đóng vai Rachel Green. Cô đóng vai Rachel từ năm 1994 tới khi bộ phim chấm dứt năm 2004.[18][19]

Chương trình là một sự thành công và Aniston cùng với các bạn diễn trở nên nổi tiếng. Kiểu tóc của cô ở thời điểm ấy, được gọi là "Rachel", được nhiều người cóp theo.[15] Aniston nhận lương một triệu dollar cho mỗi tập trong hai năm cuối thực hiện phim Những người bạn, cũng như năm lần được đề cử giải Emmy (hai cho Vai phụ, ba cho Vai chính),[20][21][22][23] và một lần giành giải cho Diễn viên chính xuất sắc trong một bộ phim hài.[24] Theo Sách kỷ lục thế giới Guinness (2005), Aniston (cùng với các ngôi sao nữ khác) đã trở thành diễn viên phim truyền hình được trả thù lao cao nhất mọi thời đại với khoản tiền 1 triệu dollar cho mỗi tập phim từ năm thứ 10 của Friends.[25]

Jennifer Aniston đã xuất hiện trong nhiều phim thương mại và âm nhạc. Năm 1996, cô xuất hiện trong phim âm nhạc của Tom Petty và The Heartbreakers, "Walls." Aniston cũng xuất hiện trong phim âm nhạc của Melissa Etheridge năm 2001, "I Want To Be In Love." Jennifer Aniston xuất hiện trong một đoạn quảng cáo của Heineken sau này đã bị cấm vì các vấn đề nhãn hiệu. Aniston cũng xuất hiện trong các đoạn phim quảng cáo cho các sản phẩm tóc của L'Oreal. Năm 1994, Microsoft mời Aniston, cùng với các diễn viên trong Những người bạn như Matthew Perry, thực hiện một đoạn quảng cáo 30 phút cho hệ điều hành mới của họ, Windows 95.[26] Cô đóng trong The Object of My Affection (1998),[27] và trong vở kịch kinh phí thấp, The Good Girl, năm 2002 đạo diễn bởi Miguel Arteta, đóng vai một thủ quỹ bình thường ở một thị trấn nhỏ, thu được 14 triệu đô-la Mỹ tiền bán vé ở Mỹ.[28] Cuối năm 2005, Aniston xuất hiện trong hai bộ phim lớn, DerailedRumor Has It.[29][30]

2005–13: Tiếp nối thành công trong con đường điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Aniston trong buổi công chiếu tại London phim Những vị sếp khó tính năm 2011

Thành công lớn nhất của cô là vai diễn năm 2003 trong bộ phim Bruce Almighty, trong đó cô đóng vai bạn gái của ngôi sao Jim Carrey.[31] Aniston sau đó xuất hiện trong bộ phim năm 2004, Along Came Polly với nam diễn viên chính Ben Stiller.[32] Năm 2006, Aniston xuất hiện trong vở kịch chi phí thấp, Friends with Money, lần đầu diễn tại Sundance Film Festival, và cũng không được diễn lại nhiều.[33] Bộ phim tiếp theo của Aniston, The Break-Up, được giới thiệu ngày 2 tháng 6, thu được xấp xỉ $39.17 triệu trong tuần công chiếu đầu tiên, dù bị giới phê bình tỏ ra lãnh đạm.[34]

Năm 2007, Aniston xuất hiện trong phần Dirt của Courteney Cox Arquette. Aniston đóng vai đối thủ của Arquette là Tina Harrod.[35] Ngoài nghề diễn, Aniston cũng đã đạo diễn một bộ phim ngắn về một phòng cấp cứu trong bệnh viện tên là Room 10, với các diễn viên Robin Wright PennKris Kristofferson;[36] Aniston đã nói rằng cô quan tâm tới việc đạo diễn bởi nữ diễn viên Gwyneth Paltrow, người đã đạo diễn một phim ngắn năm 2006.[37] Ngày 25 tháng 12 năm 2008, Marley & Me, trong đó Aniston xuất hiện cùng Owen Wilson, được công chiếu. Nó lập một kỷ lục về số tiền bán vé trong Ngày Giáng sinh với $14.75 triệu. Nó đạt tổng cộng $51.7 triệu tiền vé trong bốn ngày cuối tuần và đứng số #1 về tiền thu từ bán vé, vị trí nó giữ trong hai tuần.[38] Tới ngày 15 tháng 2 năm 2009 tổng doanh thu toàn cầu của nó đạt $161.608.269.[39]

Bộ phim được công chiếu rộng rãi tiếp sau của cô, He's Just Not That into You, ra mắt tháng 2 năm 2009. Bộ phim đoạt doanh thu $27.5 triệu, xếp hạng #1 về tiền bán vé trong tuần lễ đầu tiên.[40] Tuy bộ phim nhận được các nhận xét trái chiều, Aniston cùng với Jennifer ConnellyBen Affleck thường được giới phê bình khen ngợi vì khả năng diễn xuất trong phim.[41][42] Aniston đã xuất hiện trong tập thứ ba của 30 Rock Season 3 của NBC đóng vai bạn cùng phòng cũ thời đại học của Liz Lemon người đã theo đuổi Jack Donaghy.[43] Ngày 16 tháng 7 năm 2009, Aniston được đề cử giải Emmy cho Nữ diễn viên xuất sắc trong một bộ phim truyền hình hài về vai diễn của cô trong 30 Rock.

2014–nay: Những vai diễn gần đây và trở lại tới truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Trên phương tiện truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Forbes liệt kê Aniston là người phụ nữ giàu thứ 10 trong ngành công nghiệp giải trí năm 2007. Cô đứng sau các nhân vật như Oprah Winfrey, J. K. Rowling, Madonna, Mariah Carey, Celine DionJennifer Lopez và phía trước Britney Spears, Christina Aguilera, Mary-Kate và Ashley Olsen. Tài sản thực của Aniston xấp xỉ $110 triệu.[44] Aniston cũng nằm trong Star Salary Top 10 của tạp chí thương mại The Hollywood Reporter trong năm 2006.[45] Vào tháng 10 năm 2004, theo Forbes, Aniston là nhân vật nổi tiếng hàng đầu ngành công nghiệp giải trí.[46] Năm 2008, Aniston đứng thứ 17 trong danh sách Celebrity 100 của Forbes về "thu nhập và danh tiếng."[47] Forbes liệt kê các khoản thu nhập của Aniston là $27 triệu.[48]

Đời sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]
Aniston tại Liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2008

Aniston đã hẹn hò với bạn diễn Charlie Schlatter trong bộ phim truyền hình Ferris Bueller năm 1990.[49] Cô bắt đầu quan hệ với Daniel MacDonald năm 1991, kéo dài tới năm 1994 ngay trước khi cô nhận được vai trong phim Friends.[49]. Cô có thời gian ngắn hẹn hò với nhạc sĩ Adam Duritz vào năm 1995.[49] Từ năm 1995 đến năm 1998, cô có mối tình lãng mạn với diễn viên Tate Donovan[49] và cặp đôi được cho là đã đính hôn.

Năm 1998, cô bắt đầu hẹn hò với tài tử Brad Pitt và lấy anh ngày 29 tháng 7 năm 2000, cả hai tổ chức một đám cưới xa xỉ tại Malibu.[50] Trong vài năm, cuộc hôn nhân của họ được coi là lâu dài và khá hiếm tại Hollywood.[15] Tuy nhiên, hai người đã thông báo chia tay vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[49] Pitt bắt đầu hẹn hò với nữ diễn viên Angelina Jolie, dù Pitt đã bác bỏ việc lừa dối Aniston. Pitt và Aniston đã cùng xuất hiện công khai sau khi thông báo chia tay, thậm chí tại một bữa tiệc đêm mừng sinh nhật của Aniston, bạn bè của hai người đã nói rằng họ đang hoà giải.[51] Tuy nhiên, Aniston đã đâm đơn ly dị ngày 25 tháng 3 năm 2005.[52] Vụ ly dị được xử xong ngày 2 tháng 10 năm 2005.[53]

Aniston tiết lộ rằng cuộc ly hôn của cô khiến cô gần gũi hơn với mẹ mình, Nancy, cô đã có thái độ ghẻ lạnh bà trong gần một thập kỷ. Ban đầu họ trở nên xa lánh nhau khi Nancy nói về con gái trên một show truyền hình và sau này viết một cuốn sách có tựa đề, From Mother and Daughter to Friends: A Memoir (1999).[54][55] Aniston cũng nói rằng cô bị sốc mạnh sau cái chết của bác sĩ trị liệu lâu năm của mình, người giúp cô cảm thấy cuộc chia tay với Pitt trở nên dễ chịu hơn.[37][56]

Sau cuộc ly dị, Aniston bắt đầu quan hệ với diễn viên Vince Vaughn, bạn diễn của cô trong phim The Break Up.[49] Những rắc rối trong mối quan hệ được thông báo vào tháng 9 năm 2006, sau đó là một lời xác nhận chia tay vào tháng 12 năm ấy.[49] Cô có hẹn hò với người mẫu nam Paul Sculfor trong vài tháng năm 2007.[49] Tháng 2 năm 2008, cô bắt đầu hẹn hò với ca sĩ John Mayer.[49] Hai người chia tay vào tháng 8, nhưng nối lại quan hệ vào tháng 10 trước khi chia tay lần nữa vào tháng 3 năm 2009.[49] Cô là mẹ đỡ đầu của Coco Riley Arquette, con gái của những người bạn thân của cô, diễn viên Courteney Cox ArquetteDavid Arquette. Aniston cũng có quan hệ thân thiết với cựu bạn diễn trong phim Friends, Matthew Perry.

Năm 2015, cô kết hôn với nam diễn viên Justin Theroux, rồi sau đó ly dị vào năm 2017.[57]

Từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Aniston là người ủng hộ cho nhiều quỹ từ thiện. Cô là người hỗ trợ cho Friends of El Faro, một tổ chức phi lợi nhuận thường dân giúp gây quỹ cho Casa Hogar Sion—một trại mồ côi tại Tijuana, Mexico và đã xuất hiện trong nhiều chương trình quảng cáo thương mại trên TV cho St. Jude's Children's Research Hospital mà cô là một nhà tài trợ chính. Cô cũng một lần xuất hiện với tư cách khách mời trên Oprah's Big Give show để ủng hộ cho sự nghiệp và giúp đỡ bằng tiền mặt. Aniston đã tổ chức Stand Up to Cancer show tháng 9 năm 2008. Trong chiến dịch "It Can't Wait" để giải phóng Myanmar, Aniston đã đạo diễn và đóng trong một video. Ngày 14 tháng 4 năm 2007, Aniston nhận được Giải Vanguard của GLAAD vì những đóng góp của cô làm gia tăng tầm nhìn và thấu hiểu với người đồng tính nữ, người đồng tính nam, người lưỡng tính và cộng đồng chuyển giới.

Sự nghiệp điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Jennifer Aniston's Net Worth Has Been Sky-High Since Starring in 'Friends'. Cosmopolitan. 11 tháng 5 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2023.
  2. ^ “Jennifer Aniston - Box Office”. The Numbers. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2023.
  3. ^ a b c d e “Jennifer Aniston Biography”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  4. ^ “Jennifer Aniston”. E!. NBCUniversal. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2011.
  5. ^ Dow, Nancy (1999). From Mother and Daughter to Friends: A Memoir. Amherst, New York: Prometheus Books. tr. 32. ISBN 978-1-57392-772-7.
  6. ^ Feinberg, Scott (8 tháng 12 năm 2014). “Jennifer Aniston on 'Cake,' Typecasting and Not Wanting to Talk About BS Anymore”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2023.
  7. ^ “A Woman We Love: Jennifer Aniston”. Esquire (bằng tiếng Anh). 29 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2023.
  8. ^ a b “Jennifer Aniston Biography - Yahoo! Movies”. web.archive.org. 26 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  9. ^ Staff, OK! (11 tháng 7 năm 2009). “Fame-ous Alumni of NYC's LaGuardia High School”. OK Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2023.
  10. ^ “Hassan Manning has been cast as a principal in the Michael Pinkney film”. web.archive.org. 1 tháng 12 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2023.
  11. ^ Smith, Sean (4 tháng 9 năm 2008). Jennifer Aniston: The Unauthorized Biography (bằng tiếng Anh). Pan Macmillan. ISBN 978-0-283-06389-3.
  12. ^ “Jen Aniston, Age 20, Flirted with Howard Stern in Lost 1989 Clip”. Us Weekly (bằng tiếng Anh). 6 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  13. ^ “Jennifer Aniston Biography”. web.archive.org. 5 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  14. ^ “Hello Magazine Filmography - Jennifer Aniston”. Hello Magazine. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  15. ^ a b c d “Jennifer Aniston Biography”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  16. ^ Canby, Vincent (ngày 9 tháng 1 năm 1993). “Leprechaun Review”. New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  17. ^ a b “E! True Hollywood Story: Friends”. E! True Hollywood Story. Mùa 10. Tập 15. ngày 19 tháng 11 năm 2006. E!.
  18. ^ Marta Kauffman, David Crane, and Kevin S. Bright (ngày 22 tháng 9 năm 1994). “The Pilot”. Friends. Mùa 1. Tập 1. 30 phút. NBC.
  19. ^ The Last One”. Friends. Mùa 10. Tập 17 and 18. ngày 6 tháng 5 năm 2004. NBC. Đã bỏ qua văn bản “station” (trợ giúp)
  20. ^ “IMDB: Emmy Awards 2000”. IMDB.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  21. ^ “IMDB: Emmy Awards 2001”. IMDB.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  22. ^ “2003 Emmy Award Comedy Nominations”. Emmy Awards Online. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  23. ^ “2004 Emmy Award Comedy Nominations”. Emmy Awards Online. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  24. ^ Silverman, Stephen M. (ngày 22 tháng 9 năm 2002). “Emmy Awards Make New Best 'Friends'. People. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  25. ^ Guinness World Records 2005: Special 50th Anniversary Edition. Guinness. ngày 23 tháng 8 năm 2004. tr. 288. ISBN 1892051222. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  26. ^ Elliott, Stuart (ngày 31 tháng 7 năm 1995). “The Media Business: Advertising; Haven't heard of Windows 95? Where have you been hiding?”. New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  27. ^ Maslin, Janet (ngày 17 tháng 4 năm 1998). “The Object of My Affection Review”. New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  28. ^ Schwarzbaum, Lisa (ngày 7 tháng 8 năm 2002). “The Good Girl Review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  29. ^ Chang, Justin (ngày 5 tháng 11 năm 2005). “Derailed Review”. Variety. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  30. ^ Ebert, Roger (ngày 23 tháng 12 năm 2005). “Rumor Has It Review”. Chicago Sun-Times. Roger Ebert.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  31. ^ Koehler, Robert (ngày 23 tháng 5 năm 2003). “Bruce Almighty Review”. Variety. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  32. ^ Papamichael, Stella. “BBC Films - Along Came Polly Review”. BBC. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  33. ^ Travers, Peter (ngày 4 tháng 4 năm 2006). “Friends With Money Review”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  34. ^ “Box Office Mojo”. The Break-Up's opening weekend gross. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2006.
  35. ^ “TVSquad.com”. Jennifer Aniston to guest star on Dirt. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2007.
  36. ^ “And She Directs Too, Jennifer Aniton Marks Directing Debut With Short Film For Glamour Reel Moments”. CBS News. ngày 17 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  37. ^ a b Van Meter, Jonathan (tháng 3 năm 2006). “Jennifer Aniston: A Profile in Courage”. Style.com. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  38. ^ Wethcer, Barry (ngày 26 tháng 12 năm 2008). 'Marley & Me' sets Christmas Day record”. MSNBC. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  39. ^ “Marley and Me (2008)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  40. ^ “Moviegoers into 'Into You'. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2009. Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  41. ^ “He's Just Not That Into You”. Metacritic.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  42. ^ Cooper, Jackie K. “Jennifer Aniston and Ben Affleck in "He's Just Not That In To You". Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  43. ^ Moore, Frazier (ngày 29 tháng 8 năm 2008). “Jennifer Aniston will make a return visit to NBC”. The Associated Press. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2008.
  44. ^ “Forbes.com”. In Pictures: The Richest 20 Women In Entertainment. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2007.
  45. ^ “Hollywood.com”. Nicole Kidman Tops Hollywood Earners List at Hollywood.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2007.
  46. ^ “Fab Tab Cover Stars”. Forbes. ngày 2 tháng 10 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  47. ^ “Forbes Celebrity 100 Has a Big 'O'. Celebuzz.com. ngày 12 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2009.
  48. ^ “The Celebrity 100”. Forbes. ngày 12 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2009.
  49. ^ a b c d e f g h i j “Jennifer Aniston Biography”. Movies Yahoo!. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  50. ^ “Brad Pitt Biography”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  51. ^ “Brad & Jen Reunite for Her Birthday”. People. ngày 17 tháng 2 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  52. ^ Silverman, Stephen M. (ngày 25 tháng 3 năm 2005). “Jennifer Files for Divorce from Brad”. People. Truy cập 15 tháng 7 năm 2008.
  53. ^ Kappes, Serena (ngày 30 tháng 9 năm 2005). “Brad & Jen Finalize Divorce”. People. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
  54. ^ “The Unsinkable Jennifer Aniston”. Vanity Fair. tháng 9 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2008.
  55. ^ Laurence, Charles (ngày 15 tháng 12 năm 2006). “Not even friends...”. Los Angeles National Post.
  56. ^ 19 tháng 6 năm 2006_pg9_1 “Daily Times” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Aniston just wants to make Friends with Pitt. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2006.
  57. ^ Kohen, Sandy (15 tháng 2 năm 2018). “Jennifer Aniston and Justin Theroux announce separation”. Associated Press. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2018. Jennifer Aniston and Justin Theroux are separating after two and a half years of marriage. ... Aniston and Theroux were engaged in August of 2012 and married in August of 2015.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Hanekawa Tsubasa trong Monogatari Series
Nhân vật Hanekawa Tsubasa trong Monogatari Series
Hanekawa Tsubasa (羽川 翼, Hanekawa Tsubasa) là bạn cùng lớp cũng như là người bạn thân nhất của Araragi Koyomi
Phân loại kĩ năng trong Tensura - Tensei shitara Slime Datta Ken
Phân loại kĩ năng trong Tensura - Tensei shitara Slime Datta Ken
Trên đời này không có gì là tuyệt đối cả, nhất là với mấy cái kĩ năng có chữ "tuyệt đối" trong tên, càng tin vào "tuyệt đối", càng dễ hẹo
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Về nội dung, bộ phim xoay quanh nhân vật chính là Suzu- một nữ sinh trung học mồ côi mẹ, sống cùng với ba tại một vùng thôn quê Nhật Bản
[Phần 1] Nhật ký tình yêu chữa trĩ của tôi
[Phần 1] Nhật ký tình yêu chữa trĩ của tôi
Một câu truyện cười vl, nhưng đầy sự kute phô mai que