Kalafina

Kalafina (カラフィナ)
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánNhật Bản
Thể loạiJ-pop
Chamber pop
Contemporary classical
Năm hoạt động2007–2019
Hãng đĩaSony Music Japan (2007–nay)
Space Craft Produce
Hợp tác vớiFictionJunction
Yuki Kajiura
Thành viênWakana Ōtaki
Hikaru Masai
Cựu thành viênMaya Toyoshima (2008-2009)
Keiko Kubota (2007-2018)
WebsiteTrang web chính thức

Kalafina (カラフィナ) là một ban nhạc Nhật Bản do nhạc sĩ Kajiura Yuki tập hợp vào năm 2007 với mục đích ban đầu là trình bày các bài hát trong loạt phim Kara no Kyōkai. Ban nhạc ra mắt vào Tháng 1 năm 2008 với 2 thành viên ban đầu lấy từ dự án FictionJunction của Kajiura: Ōtaki Wakana và Kubota Keiko (điều này chỉ được chính thức công bố trong buổi hòa nhạc Dream Port 2008 của Kajiura cùng ban nhạc Sound Horizon diễn ra vào hôm 29 tháng 4 năm 2008). Tháng 5 năm 2008, hai ca sĩ mới Maya và Hikaru, được chính thức chọn lựa làm thành viên của Kalafina.

Kalafina xuất hiện và biểu diễn lần đầu tiên tại Mỹ ở thành phố Boston vào ngày 23 tháng 5 năm 2009 với tư cách là khách mời của lễ hội thường niên Anime Boston.[1]

Đầu năm 2018, nhà sản xuất Kajiura Yuki chấm dứt hợp đồng với công ty quản lý Space Craft Produce sau nhiều tranh cãi, dẫn đến nhiều đồn đại về tương lai của nhóm. Hai thành viên Keiko và Hikaru theo chân Kajiura rời khỏi Space Craft Produce lần lượt vào tháng 4 và tháng 11 cùng năm. Ngày 13 tháng 3 năm 2019, Kalafina chính thức tan rã.

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Ōtaki Wakana (大滝若奈 Đại Lung Nhược Thái?) sinh 10 tháng 12, 1984 (39 tuổi), cũng là một thành viên trong dự án FictionJunction dưới tên gọi FictionJunction WAKANA.

Giọng hát của Wakana là nền tảng xây dựng nên Kalafina. Nó được miêu tả là độc nhất vô nhị, "giọng hát của nữ thần". Theo Kajiura Yuki, giọng của Wakana "không phù hợp với những bài hát tươi sáng. Cô ấy là kiểu ca sĩ mà dù hát ca khúc nào cũng khiến nó trở nên u buồn và bi ai."

Sau khi Kalafina tan rã, Wakana là người duy nhất còn ở lại công ty quản lý Space Craft Produce. Cô phát hành nhạc phẩm solo đầu tay vào tháng 2 năm 2019.

Masai Hikaru (政井光 Chính Tĩnh Quang?) sinh 2 tháng 7, 1987 (37 tuổi).

  • Vị trí trong Kalafina: Bè trung (mezzo-soprano).
  • Nguyên quán: Toyama.
  • Sở thích: Ăn trứng và các món có trứng, chơi ghép hình, đọc sách, đi dạo, ngủ.
  • Tính cách: Ngoài đời rất hiền và ít nói, ngược hoàn toàn với giọng hát mạnh mẽ trên sân khấu. Các thành viên khác miêu tả cô là một người rất vô tư hồn nhiên.
  • Động vật yêu thích: Bươm bướm.
  • Biết làm bánh.

Sau khi nhóm tan rã, Hikaru bắt đầu sự nghiệp solo với nghệ danh H-el-ical. Cô kí hợp đồng với NBCUniversal Entertainment Japan, một hãng đĩa chuyên sản xuất nhạc anime.

Kubota Keiko (窪田啓子 Oa Điền Khởi Tử?), sinh 5 tháng 12, 1985 (38 tuổi), là một thành viên trong dự án FictionJunction dưới tên gọi FictionJunction KEIKO.

  • Vị trí trong Kalafina: Bè trầm (contralto)
  • Nguyên quán: Tokyo.
  • Trước khi tham gia Kalafina, năm 2007 Keiko từng là thành viên của nhóm hát Itokubo cùng với Ayaka Itou.
  • Xuất hiện khá thường xuyên trong vai trò người mẫu cho tạp chí thời trang nổi tiếng KERA của Nhật Bản.

Trong Kalafina, Keiko là thành viên duy nhất chưa từng qua một lớp đào tạo nhạc chính quy nào. Cho tới tận buổi biểu diễn live đầu tiên của FictionJunction, cô vẫn không biết đọc nốt nhạc. Giọng hát trầm của Keiko cũng là một trở ngại khi cô gia nhập Kalafina, bởi các ca khúc của Kajiura Yuki thường được viết ở nốt cao. Bù lại, khả năng hòa bè thiên phú của Keiko là thứ mà Kajiura Yuki đánh giá rất cao, bà từng nói "Kalafina không thể thiếu Keiko. Dù tôi có tìm khắp Nhật Bản cũng không thể thấy ai có khả năng hòa âm tuyệt vời như cô ấy. Nếu ai đó khen rằng Kalafina có hòa âm tốt, tất cả là nhờ công lao của Keiko. Ngày 1 tháng 4 năm 2018 Keiko chính thức rời Kalafina cũng như chấm dứt hợp đồng với công ty chủ quản Spacecraft. Thông tin này được chính thức công khai từ blog của Kalafina ngày 13 tháng 4 cùng năm.

Đầu năm 2020, Keiko kí hợp đồng với hãng đĩa Avex Trax và trở thành nghệ sĩ solo.

Toyoshima Maya (豊島摩耶 Phong Đảo Ma Gia?) sinh 1991.
  • Vị trí trong Kalafina: Bè trung, bè cao.
  • Nguyên quán: Hokkaido.
  • Tính cách: Theo như Wakana, Maya rất thích cười. Trẻ tuổi nhưng rất đáng tin cậy.
  • Maya chỉ xuất hiện duy nhất trong đĩa đơn sprinter/ARIA của Kalafina. Năm 2009, tại buổi trình diễn Musou no Rakuen, hãng Sony đưa ra thông báo Maya sẽ không còn là thành viên của Kalafina[2]. Có nhiều tin đồn cho rằng vì Maya vẫn còn là một học sinh trung học và buộc phải tập trung vào việc học tập nên không thể tiếp tục đi biểu diễn.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Xếp hạng Oricon Doanh số
Vị trí Số tuần
2009 Seventh Heaven 8[3] 19 38,087
2010 Red Moon 5[4] 9 27,818
2011 After Eden 3[5] 11 34,034
2013 Consolation 3 15 24,276
2015 Far on the Water 2 8 42,002
Năm Tựa đề Xếp hạng Oricon Doanh số Album Anime
Vị trí Số tuần
2008 oblivious 8 24 38,695 Seventh Heaven Kara no Kyoukai
2008 sprinter/ARIA 10 8 23,309
2008 fairytale 9 6 20,252
2009 lacrimosa 14 7 17,676 Red Moon Kuroshitsuji
storia 15 4 7,093
progressive 14 3 6,076
2010 Hikari no Senritsu 7 11 20,281 So Ra No Wo To
Kagayaku Sora no Shijima ni wa 14 5 11,769 After Eden Kuroshitsuji II
2011 Magia 7 21 48,679 Puella Magi Madoka Magica
2012 to the beginning 11 17 52,413 Consolation Fate/Zero
moonfesta 11 5 10,023
Hikari Furu 4 4 52,333 Puella Magi Madoka Magica the Movie
2013 Alleluia 10 7 18,980 Kara no Kyoukai: Mirai Fukuin
Kimi no Gin no Niwa 4 16 56,921 Puella Magi Madoka Magica the Movie: Rebellion
2014 heavenly blue 15 12 18,704 Far on the Water Aldnoah.Zero
believe 10 10 27,722 Fate/stay night: Unlimited Blade Works
2015 ring your bell 8 9 26,224
One Light 10 11,708 Arslan Senki

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2010.
  2. ^ “Kalafina Sony Music ソニーミュージック オフィシャルサイト”. Truy cập 7 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ “Seventh Heaven at Oricon chart” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2010.
  4. ^ “Red Moon at Oricon chart” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2012.
  5. ^ “After Eden at Oricon chart” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Bộ kỹ năng của Chevreuse - Đội trưởng đội tuần tra đặc biệt của Fontaine
Bộ kỹ năng của Chevreuse - Đội trưởng đội tuần tra đặc biệt của Fontaine
Các thành viên trong đội hình, trừ Chevreuse, khi chịu ảnh hưởng từ thiên phú 1 của cô bé sẽ +6 năng lượng khi kích hoạt phản ứng Quá Tải.
Pokémon Nobelium
Pokémon Nobelium
Due to it's territorial extent over a large amount of land, Aloma is divided into two parts, Upper and Lower Aloma
Giới thiệu Naoya Zenin -  Jujutsu Kaisen
Giới thiệu Naoya Zenin - Jujutsu Kaisen
Anh là con trai út của Naobito Zenin và tin rằng mình là người thừa kế thực sự của Gia tộc Zenin
[Visual Novel] White Album 2 Tiếng Việt
[Visual Novel] White Album 2 Tiếng Việt
Đây là bài đầu tiên mà tôi tập, và cũng là bài mà tôi đã thuần thục