Kh-59 Ovod (tên ký hiệu NATO: AS-13 'Kingbolt') Kh-59M Ovod-M (AS-18 'Kazoo') | |
---|---|
Loại | tên lửa không đối đất tên lửa chống hạm |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1991-nay |
Sử dụng bởi | Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Raduga |
Nhà sản xuất | Tập đoàn Tên lửa Chiến thuật |
Thông số | |
Khối lượng | 930 kg (2,050 lb)[1] |
Chiều dài | 570 cm (220 in) [1] |
Đường kính | 38.0 cm (15.0 in) [1] |
Đầu nổ | Chụm hoặc mảnh[1], 320 kg (705 lb) |
Động cơ | Kh-59:tên lửa hai tầng Kh-59ME:tên lửa và turbofan |
Sải cánh | 130 cm (51.2 in) [1] |
Tầm hoạt động | Kh-59: 115 km (62 nmi) [1] Kh-59ME (xuất khẩu): 200 km (110 nmi) Kh-59MK: 285 km (150 nmi) Kh-59MK2: 1100 km (810 nmi) |
Tốc độ | Mach 0.72-0.88[1] |
Hệ thống chỉ đạo | Dẫn đường quán tính kết hợp TV/camera hồng ngoại/radar chủ động (tùy theo phiên bản) |
Nền phóng | Kh-59ME:Su-30MK[1] Kh-59: Su-24M, MiG-27, Su-17M3/22M4, Su-25 và Su-30[2] |
Kh-59 Ovod (tiếng Nga: Х-59 Овод 'Gadfly'; AS-13 'Kingbolt') là một loại tên lửa hành trình dẫn đường bằng TV của Nga, với hệ thống đẩy nhiên liệu rắn hai tầng. Kh-59M Ovod-M (AS-18 'Kazoo') là một biến thể với một đầu đạn cỡ lớn và động cơ phản lực tuabin. Mục tiêu ban đầu khi thiết kế Kh-59 là tấn công các mục tiêu trên đất liền tương đương như loại AGM-84E SLAM của Mỹ, nhưng sau đó biến thể Kh-59MK chống hạm cũng được phát triển.[3]
Tên lửa Kh-59 được thiết kế dựa trên loại tên lửa Raduga Kh-58 (AS-11 'Kilter').
Raduga OKB phát triển Kh-59 vào thập niên 1970 như một phiên bản tầm của Kh-25 (AS-10 'Karen'),[4] như một vũ khí chính xác tấn công từ xa cho Su-24M và MiG-27.[2]. Các cảm biến quang-điện tử cho loại tên lửa này và các vũ khí khác như Kh-29 (AS-14 'Kedge') và bom KAB-500 được phát triển bởi S A Zverev NPO tại Krasnogorsk.[4]
Người ta tin rằng việc phát triển Kh-59M bắt đầu vào thập niên 1980[3]. Chi tiết của Kh-59M được tiết lộ vào năm 1992.[3] Năm 1991, một biến thể có tầm bắn 200 km đã được giới thiệu xuất khẩu với tên gọi Kh-59ME.[3]
Kh-59 ban đầu được trang bị một động cơ nhiên liệu bột, và kết hợp với một máy gia tốc nhiên liệu bột ở đuôi. Bộ ổn định gấp nếp được đặt ở phía trước của tên lửa, với cánh và đuôi lái ở phía sau. Kh-59 có thể bay trên độ cao 7 mét so với mặt nước biển và 100-1000 mét so với mặt đất nhờ vào một radar đo độ cao. Nó có thể phóng với tốc độ 600 đến 1,000 km/h trên độ cao 0,2 đến 11 km và có CEP khoảng 2 đến 3 m.[5] Nó được gắn vào máy bay nhờ thiết bị treo AKU-58-1.[2]
Kh-59ME có một động cơ động cơ tuốc bin cánh quạt đẩy bên ngoài dưới thân và phía trước của cánh sau, nhưng giữ lại máy gia tốc nhiên liệu bột. Nó cũng có một hệ thống dẫn đường kép gồm có một hệ thống dẫn đường quan tính để dẫn đường cho tên lửa trong khu vực mục tiêu và một hệ thống truyền hình để dẫn đường cho tên lửa đến mục tiêu.[1]
Tọa độ mục tiêu được nạp vào tên lửa trước khi phóng, và trong pha đầu của hành trình nó sẽ được dẫn đường bởi hệ dẫn đường quán tính. Tại khi cách mục tiêu 10 km hệ dẫn đường truyền tuyến được kích hoạt. Một bảng mạch vận hành trên máy bay xác định mục tiêu và khóa tên lửa vào mục tiêu.
Dù thiết kế Kh-59 gốc có thể được trang bị trên MiG-27 'Flogger', Su-17M3/22M4 'Fitter', Su-24M 'Fencer', Su-25 'Frogfoot' và Su-30 'Flanker', nếu chứng mang thiết bị liên kết dữ liệu gắn ngoài APK-9, hệ thống này chỉ được gắn trên Su-24M trong biến chế của Không quân Nga.[2]