Lutjanus inermis

Lutjanus inermis
Rabirubia inermis (=L. inermis)
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Lutjanus
Loài (species)L. inermis
Danh pháp hai phần
Lutjanus inermis
(Peters, 1869)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Mesoprion inermis Peters, 1869
  • Rabirubia inermis (Peters, 1869)

Lutjanus inermis là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1869.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh inermis trong tiếng Latinh có nghĩa là "không vũ trang", hàm ý đề cập đến các gai vây lưng mỏng manh ở loài cá này.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

L. inermis có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ mũi nam bán đảo Baja California và cửa vịnh California trải dài về phía nam đến Ecuador, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Malpelođảo Cocos xa bờ.[1]

L. inermis sống trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 70 m.[3]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. inermis là 39 cm.[3] Chiều dài thuần thục sinh dục là 23,9 cm đối với cá cái và 23,6 cm đối với cá đực.[4]

Cá trưởng thành có màu xám, với các sọc xám sẫm dọc hai bên lườn (~10 đường bên dưới đường bên và ~20 đường xiên trên đó). Chúng thường có vây đuôi và vây lưng màu vàng đặc trưng, kèm một sọc vàng từ giữa thân kéo dài ra sau cuống đuôi cũng màu vàng. Tuy nhiên, đôi khi chúng không có màu vàng hoặc màu vàng chỉ giới hạn trên vây đuôi. Khi chụp dưới nước sâu và khi mới được đánh bắt, chúng thường ửng đỏ trên cơ thể.[3]

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11.[5]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của L. inermis bao gồm cá và một số loài thủy sinh không xương sống như giáp xác, cũng có thể ăn sinh vật phù du.[6]

Vào ban ngày, chúng hợp thành đàn từ 30 cá thể trở lên, đôi khi đứng im. Cá con bắt chước cá thia Azurina atrilobata và thường bơi cùng nhau.[1]

Hai thời kỳ sinh sản chính trong năm được ghi nhận ở L. inermis là vào khoảng tháng 2–tháng 4 và tháng 9–tháng 11.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Rojas, P.; Cotto, A.; Acero, A.; Bessudo, S. (2010). Lutjanus inermis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T183282A8086365. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-3.RLTS.T183282A8086365.en. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  3. ^ a b c Robertson, D. Ross; Cox, Carol D.; Cox, Robert L. (2021). “Lutjanus inermis (Peters, 1869), Golden Snapper, range extension to the Galapagos Islands”. Check List. 17 (6): 1633–1637. doi:10.15560/17.6.1633. ISSN 1809-127X.
  4. ^ a b Lucano-Ramírez, Gabriela; Ruiz-Ramírez, Salvador; González-Sansón, Gaspar; Ceballos-Vázquez, Bertha Patricia (2012). “Reproductive biology of the golden snapper Lutjanus inermis (Perciformes: Lutjanidae) in the central Mexican Pacific” (PDF). Revista De Biologia Tropical. 60 (1): 393–403. ISSN 0034-7744. PMID 22458233.
  5. ^ D. Ross Robertson & J. Van Tassell (2019). “Species: Lutjanus inermis, Jordan's snapper, Whipper snapper”. Shorefishes of the Eastern Pacific online information system.
  6. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus inermis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Marley and Me - Life and love with the world's worst dog
Marley and Me - Life and love with the world's worst dog
Một cuốn sách rất đáng đọc, chỉ xoay quanh những câu chuyện đời thường nhưng vô cùng giản dị. Chú chó lớn lên cùng với sự trưởng thành của cặp vợ chồng, của gia đình nhỏ đấy
Vì sao vẫn cứ mãi là cẩu độc thân
Vì sao vẫn cứ mãi là cẩu độc thân
Sống hơn 20 năm rồi, quả là càng sống càng hiểu, hãy thử tổng kết lại vài nguyên nhân nào.
Naginata - Vũ khí của Lôi thần Baal
Naginata - Vũ khí của Lôi thần Baal
Trấn của Baal không phải là một thanh Katana, biểu tượng của Samurai Nhật Bản. Mà là một vũ khí cán dài
Dies Irae – tuyệt tác của Chuuni Genre
Dies Irae – tuyệt tác của Chuuni Genre
Vào năm 2004, Type-moon cùng Nasu thả một quả bom vào ngành công nghiệp Visual novel mà cho đến hơn 10 năm sau, hậu quả của quả bom đó vẫn chưa phai mờ