Lutjanus malabaricus

Lutjanus malabaricus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Lutjanus
Loài (species)L. malabaricus
Danh pháp hai phần
Lutjanus malabaricus
(Bloch & Schneider, 1801)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Sparus malabaricus Bloch & Schneider, 1801
  • Mesoprion dodecacanthus Bleeker, 1853

Lutjanus malabaricus, còn được gọi là cá hồng mím,[2][3] là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh được đặt theo tên gọi của bờ biển Malabar (bờ tây nam Ấn Độ), nhưng Bloch và Schneider cho rằng mẫu định danh thực tệ được thu thập ở bờ biển Coromandel (bờ đông Ấn)[4] (–icus trong tiếng Latinh nghĩa là "thuộc về"[5]).

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

L. malabaricus có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ vịnh Ba Tư và đảo Socotra trải dài về phía đông đến Palau, FijiTonga, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bảnđảo Jeju, giới hạn phía nam đến ÚcNouvelle-Calédonie.[4] Ghi nhận của L. malabaricusĐông Phi là không có căn cứ.[1] L. malabaricus cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam,[6] bao gồm quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[7]

L. malabaricus sống tập trung trên rạn san hô và khu vực bãi cạn, độ sâu trong khoảng 12–140 m; cá con sống ở vùng nước nông gần bờ và trong thảm cỏ biển.[1]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. malabaricus là 100 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 50 cm.[8]

Lưng và hai bên thân màu đỏ tươi hoặc đỏ cam, nhạt hơn ở thân dưới, các vây đỏ nhạt. Cá con có một dải nâu hoặc đen dày, từ hàm trên xiên chéo lên phần trước vây lưng, và một đốm đen lớn ở gốc vây đuôi với viền trắng, cũng có thể có các sọc đỏ mảnh ở hai bên lườn.

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.[9]

L. malabaricusLutjanus erythropterus là hai loài chị em, cá bột của chúng không thể phân biệt được về mặt hình thái vì rất giống nhau.[10] Cá trưởng thành đều có màu đỏ, nhưng có thể phân biệt bởi L. malabaricus có miệng rộng hơn, và chiều dài hàm trên lớn hơn so với L. erythropterus.[9]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của L. malabaricus chủ yếu là cá nhỏ hơn, cũng bao gồm các loài giáp xácchân đầu. Chúng chủ yếu kiếm ăn vào ban đêm.[8]

L. malabaricus sinh sản đạt đỉnh điểm từ tháng 9 đến tháng 3 ở Bắc Úc, kích thước khi thuần thục sinh dục là 24 cm đối với cá đực và 25–30 cm đối với cá cái.[11] Còn ở Việt Nam, L. malabaricus sinh sản quanh năm, và đạt đỉnh điểm là cuối tháng 3–đầu tháng 4 cho đến tháng 8.[12]

L. malabaricus đạt đến độ tuổi cao nhất là 48, được ghi nhận ở vùng Bắc Úc và Đông Indonesia;[13] trong khi đó ở rạn san hô Great Barrier, L. malabaricus sống lâu nhất là đến 20 năm tuổi;[14] còn ở Tây Úc thì L. malabaricus có thể sống đến 31 năm.[15]

Giá trị

[sửa | sửa mã nguồn]

L. malabaricus là loài có giá trị thương mại cao. Ở Kuwait, chúng là một trong những loài cá thương mại chính yếu, cũng như ở những thành phố cảng dọc bờ vịnh Ba Tư.[9] Cùng với L. erythropterus, L. malabaricus là hai loài được nhắm mục tiêu trong nghề cá thương mại và câu cá giải tríÚc, Papua New GuineaIndonesia.[16] L. malabaricus đã được sản xuất trong ngành nuôi trồng thủy sảnMalaysia.[17]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Carpenter, K. E.; Lawrence, A.; Myers, R.; Russell, B. & Smith-Vaniz, W. F. (2019). Lutjanus malabaricus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2019: e.T194346A2317529. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-2.RLTS.T194346A2317529.en. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ “Danh sách các loài thủy sản cấu thành nên sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất khẩu (ban hành kèm theo công văn số 3997/TS-KHCN ngày 31/12/2001)” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.
  3. ^ Trần Công Thịnh; Võ Văn Phú; Nguyễn Phi Uy Vũ; Bùi Đức Lĩnh (2020). “Đa dạng thành phần loài cá ở hạ lưu sông Cái, Nha Trang” (PDF). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản. 2: 97–111. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.
  4. ^ a b R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Sparus malabaricus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.
  5. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.
  6. ^ Võ Văn Phú; Lê Văn Quảng; Dương Tuấn Hiệp; Nguyễn Duy Thuận (2011). “Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá rạn san hô ven bờ đảo Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị” (PDF). Tạp chí Khoa học Đại học Huế. 64: 85–98. doi:10.26459/jard.v64i1.3092. ISSN 2615-9708.
  7. ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.
  8. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus malabaricus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  9. ^ a b c William D. Anderson & Gerald R. Allen (2001). “Lutjanidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3. Roma: FAO. tr. 2884. ISBN 92-5-104302-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  10. ^ Takahashi, Miwa; DiBattista, Joseph D.; Jarman, Simon; Newman, Stephen J.; Wakefield, Corey B.; Harvey, Euan S.; Bunce, Michael (2020). “Partitioning of diet between species and life history stages of sympatric and cryptic snappers (Lutjanidae) based on DNA metabarcoding”. Scientific Reports. 10 (1): 4319. doi:10.1038/s41598-020-60779-9. ISSN 2045-2322. PMC 7062689. PMID 32152406.
  11. ^ Fry, Gary; Milton, David A.; Van Der Velde, Tonya; Stobutzki, Ilona; Andamari, Retno; Badrudin; Sumiono, Bambang (2009). “Reproductive dynamics and nursery habitat preferences of two commercially important Indo-Pacific red snappers Lutjanus erythropterus and L. malabaricus”. Fisheries Science. 75 (1): 145–158. doi:10.1007/s12562-008-0034-4. ISSN 1444-2906.
  12. ^ Yen, Dinh Thi Hai; Lam, Hoang Ngoc; Ha, Vo Thi; F. V., Lishchenko; Luc, Nguyen Van; Thuy, Nguyen Thi; Hieu, Nguyen Trinh Duc; Tuan, Hoang Anh (2022). “Reproductive characteristics of malabar blood snapper Lutjanus malabaricus (Bloch & Schneider, 1801) in coastal marine zone of Nghe An and Ha Tinh provinces, Vietnam”. Academia Journal of Biology. 44 (4): 133–144. doi:10.15625/2615-9023/17433. ISSN 2815-5912.
  13. ^ Fry, Gary C.; Milton, David A. (2009). “Age, growth and mortality estimates for populations of red snappers Lutjanus erythropterus and L. malabaricus from northern Australia and eastern Indonesia” (PDF). Fisheries Science. 75 (5): 1219–1229. doi:10.1007/s12562-009-0157-2. ISSN 1444-2906.
  14. ^ Newman, Stephen J; Cappo, Michael; Williams, David McB (2000). “Age, growth, mortality rates and corresponding yield estimates using otoliths of the tropical red snappers, Lutjanus erythropterus, L. malabaricus and L. sebae, from the central Great Barrier Reef”. Fisheries Research. 48 (1): 1–14. doi:10.1016/S0165-7836(00)00115-6. ISSN 0165-7836.
  15. ^ Newman, Stephen J. (2002). “Growth rate, age determination, natural mortality and production potential of the scarlet seaperch, Lutjanus malabaricus Schneider 1801, off the Pilbara coast of north-western Australia” (PDF). Fisheries Research. 58 (2): 215–225. doi:10.1016/S0165-7836(01)00367-8. ISSN 0165-7836.
  16. ^ Salini, J. P.; Ovenden, J. R.; Street, R.; Pendrey, R.; Haryanti; Ngurah (2006). “Genetic population structure of red snappers (Lutjanus malabaricus Bloch & Schneider, 1801 and Lutjanus erythropterus Bloch, 1790) in central and eastern Indonesia and northern Australia” (PDF). Journal of Fish Biology. 68 (B): 217–234. doi:10.1111/j.0022-1112.2006.001060.x. ISSN 0022-1112.
  17. ^ Mazumder, Sabuj Kanti; Das, Simon Kumar; Bakar, Yosni; Ghaffar, Mazlan Abd. (2016). “Effects of temperature and diet on length-weight relationship and condition factor of the juvenile Malabar blood snapper (Lutjanus malabaricus Bloch & Schneider, 1801)”. Journal of Zhejiang University-SCIENCE B. 17 (8): 580–590. doi:10.1631/jzus.B1500251. ISSN 1862-1783. PMC 4980436. PMID 27487803.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Kugisaki Nobara - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Kugisaki Nobara - Jujutsu Kaisen
Kugisaki Nobara (釘くぎ崎さき野の薔ば薇ら Kugisaki Nobara?, Đanh Kì Dã Tường Vi) là nhân vật chính thứ ba (từ gốc: tritagonist) của bộ truyện Jujutsu Kaisen
Tại sao chúng ta nên trở thành một freelancer?
Tại sao chúng ta nên trở thành một freelancer?
Freelancer là một danh từ khá phổ biến và được dùng rộng rãi trong khoảng 5 năm trở lại đây
Một góc nhìn, quan điểm về Ngự tam gia, Tengen, Sukuna và Kenjaku
Một góc nhìn, quan điểm về Ngự tam gia, Tengen, Sukuna và Kenjaku
Ngự tam gia là ba gia tộc lớn trong chú thuật hồi chiến, với bề dày lịch sử lâu đời, Ngự Tam Gia - Zenin, Gojo và Kamo có thể chi phối hoạt động của tổng bộ chú thuật
Power vs Force – khi “thử cơ” bá đạo hơn “cầu cơ”
Power vs Force – khi “thử cơ” bá đạo hơn “cầu cơ”
Anh em nghĩ gì khi nghe ai đó khẳng định rằng: chúng ta có thể tìm ra câu trả lời đúng/sai cho bất cứ vấn đề nào trên đời chỉ trong 1 phút?