Từ định danh erythropterus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: eruthrós (ἐρυθρός; “đỏ”) và pterón (πτερόν; “vây, cánh”), hàm ý đề cập đến màu đỏ tươi trên các vây của loài cá này.[2]
Trong một nghiên cứu về cấu trúc di truyền quần thể L. erythropterus ở Đông Á và khu vực Biển Đông, người ta chia L. erythropterus thành hai nhóm chính: một nhóm gồm các quần thể ở Tây Thái Bình Dương và biển Hoa Đông, và một nhóm gồm các quần thể từ phía bắc Malaysia đến bờ nam Trung Quốc.[5]
L. erythropterus sống tập trung trên rạn san hô, độ sâu trong khoảng 5–100 m;[6] cá con sống ở vùng nước nông (như cửa sông) có nền đáy bùn.[1]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. erythropterus là 81,6 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 45 cm.[6]
L. erythropterus có màu hồng hoặc đỏ trên toàn cơ thể, gồm cả các vây. Cá con có một dải đen dày, từ miệng kéo dài xiên lên phần trước vây lưng, và một đốm đen lớn ở gốc vây đuôi, cũng thường có các sọc đỏ mảnh ở trên thân.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.[7]
L. erythropterus và Lutjanus malabaricus là hai loài chị em, cá bột của chúng không thể phân biệt được về mặt hình thái vì rất giống nhau.[8] Cá trưởng thành đều có màu đỏ, nhưng có thể phân biệt bởi L. erythropterus có miệng nhỏ hơn, và chiều dài hàm trên cũng thấp hơn so với L. malabaricus.[9]
Thức ăn của L. erythropterus chủ yếu là cá nhỏ hơn, cũng bao gồm các loài giáp xác và chân đầu. Chúng chủ yếu kiếm ăn vào ban đêm.[6]
L. erythropterus sinh sản đạt đỉnh điểm từ tháng 7 đến tháng 12 ở Bắc Úc.[10]L. erythropterus đạt đến độ tuổi cao nhất là 42, được ghi nhận ở vùng Bắc Úc và Đông Indonesia;[11] trong khi đó ở rạn san hô Great Barrier, L. erythropterus sống lâu nhất là đến 32 năm tuổi.[12]
Một loài ký sinh trùng mới được phát hiện trong não và các cơ quan nội tạng của L. erythropterus có danh pháp là Kudoa lutjanus (thuộc phân ngành bào tử sợi Myxozoa).[13]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Lutjanus erythropterus”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2023.
^Zhang, Junbin; Cai, Zeping; Huang, Liangmin (2006). “Population genetic structure of crimson snapper Lutjanus erythropterus in East Asia, revealed by analysis of the mitochondrial control region”. ICES Journal of Marine Science. 63 (4): 693–704. doi:10.1016/j.icesjms.2006.01.004. ISSN1095-9289.
^William D. Anderson & Gerald R. Allen (2001). “Lutjanidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3. Roma: FAO. tr. 2872. ISBN92-5-104302-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^William D. Anderson & Gerald R. Allen (2001). “Lutjanidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3. Roma: FAO. tr. 2884. ISBN92-5-104302-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Fry, Gary; Milton, David A.; Van Der Velde, Tonya; Stobutzki, Ilona; Andamari, Retno; Badrudin; Sumiono, Bambang (2009). “Reproductive dynamics and nursery habitat preferences of two commercially important Indo-Pacific red snappers Lutjanus erythropterus and L. malabaricus”. Fisheries Science. 75 (1): 145–158. doi:10.1007/s12562-008-0034-4. ISSN1444-2906.
^Newman, Stephen J; Cappo, Michael; Williams, David McB (2000). “Age, growth, mortality rates and corresponding yield estimates using otoliths of the tropical red snappers, Lutjanus erythropterus, L. malabaricus and L. sebae, from the central Great Barrier Reef”. Fisheries Research. 48 (1): 1–14. doi:10.1016/S0165-7836(00)00115-6. ISSN0165-7836.
^Cai, S. H.; Lu, Y. S.; Wu, Z. H.; Jian, J. C. (2013). “Cloning, expression of Vibrio alginolyticus outer membrane protein-OmpU gene and its potential application as vaccine in crimson snapper, Lutjanus erythropterus Bloch”. Journal of Fish Diseases. 36 (8): 695–702. doi:10.1111/jfd.12036. ISSN1365-2761. PMID23383977.