M163 VADS | |
---|---|
Loại | Pháo phòng không tự hành |
Nơi chế tạo | Hoa Kỳ |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1968–nay |
Sử dụng bởi | Hoa Kỳ (1968–1994), NATO |
Trận | Chiến tranh Việt Nam Western Sahara War Chiến tranh Li băng 1982 Cuộc xâm lược Panama Chiến tranh vùng Vịnh Israeli–Palestinian conflict Chiến tranh Iraq (sử dụng hạn chế) Cuộc nội chiến Yemen (2014-nay) Saudi Arabian–led intervention in Yemen[1] |
Thông số | |
Khối lượng | 12,493 kilôgam (27,542 lb) combat weight |
Chiều dài | 4,86 mét (191,5 in) |
Chiều rộng | 2,85 mét (112,4 in) |
Chiều cao | 2,9 mét (115 in) |
Kíp chiến đấu | 4 (Chỉ huy, pháo thủ, nạp đạn, lái xe) |
Phương tiện bọc thép | Giáp Nhôm Rolled 5083/5086 H32, 29-45 |
Vũ khí chính | xe thiết giáp M168 General Dynamics; Pháo nòng xoay M61 Vulcan cỡ nòng 20 mm 2.100 viên dự trữ |
Vũ khí phụ | Không/vũ khí nhẹ của bộ binh đi kèm |
Động cơ | Động cơ Diesel hai thì 6 xy lanh General Motors 6V53 212 hp (158 kW) |
Hệ thống treo | torsion bar, 5 road wheels |
Tầm hoạt động | 480 km (300 mi) |
Tốc độ | 64 km/h (40 mph) |
Hệ thống M163 Vulcan Air Defense System (VADS) là một Vũ khí phòng không tự hành (SPAAG) được trang bị cho Lục quân Mỹ. Pháo M168 là một phiên bản của pháo nòng xoay M61 Vulcan cỡ nòng 20 mm (0,79 in) do General Dynamics sản xuất, đây cũng là loại pháo tiêu chuẩn trong quân đội Mỹ từ những năm 1960s, được gắn lên xe thiết giáp hoặc xe kéo.
Hệ thống pháo được đặt trên xe thiết giáp dựa trên M-113 với tên gọi M741. Hệ thống pháo phòng không M163 được phát triển để bổ sung cho M48 Chaparral có tầm bắn xa hơn. M163 sử dụng radar định tầm cỡ nhỏ AN/VPS-2, và kính ngắm quang học M61. Hệ thống phù hợp cho hoạt động tác chiến ban đêm với việc trang bị kính nhìn đêm series AN/PVS gắn bên phải kính ngắm chính.
Tốc độ bắn của pháo đạt 3.000 viên/phút theo chế độ bắn loạt 10, 30, 60 hay 100 viên một, hoặc nó có khả năng bắn liên tục với tốc độ bắn 1.000 viên/phút.[2]
Hệ thống pháo phòng không M163 có cự ly tác xạ với đạn 20x102mm là 1.200 mét (3.900 ft), và đạn phòng không chuyên dụng HEI-T có khả năng tự hủy ở khoảng cách 1.800 mét (5.900 ft), một cự ly tương đối ngắn. Ngoài ra, radar chỉ có khả năng định tầm và không có khả năng tìm kiếm mục tiêu.
Trong biên chế quân đội Mỹ và Israel, VADS ít khi được sử dụng như vai trò chính của nó-đối phó với các mục tiêu bay thấp. Thay vào đó, hệ thống pháo Vulcan từ cuối những năm 1980s và đầu những năm 1990s đã được sử dụng như là vũ khí chính hỗ trợ tấn công các mục tiêu mặt đất. VADS đã tham gia cuộc chiến tại Panama năm 1989 trong Chiến dịch Just Cause với vai trò hỗ trợ hỏa lực cho lính Mỹ. Thành tích chiến đấu của nó là đã đánh chìm tàu tuần tra của lực lượng phòng vệ Panama.[3] Chiến dịch cuối cùng có sự tham gia của M163 VADS là chiến dịch Bão táp sa mạc.
Nhằm cung cấp một hệ thống phòng không Lục quân hiệu quả hơn và có khả năng chống lại mục tiêu như máy bay trực thăng mang tên lửa chống tăng có khả năng tấn công tầm xa hơn cự ly tác xạ của pháo, VADS dự kiến sẽ được thay thế bằng hệ thống M247 Sergeant York DIVADS (Divisional Air Defense System), tuy nhiên hệ thống này không được sản xuất do chi phí phát triển quá cao, các vấn đề về kỹ thuật và có tính năng nghèo nàn.[4]
Vào năm 1984, hệ thống VADS nâng cấp (PIVADS) (viết tắt của Product-Improved VADS) đã được giới thiệu, có hiệu suất được cải thiện đáng kể về độ chính xác và dễ dàng vận hành, nhưng vẫn sử dụng cỡ đạn 20x102 mm. Năm 1988, xe được trang bị thêm bệ phóng tên lửa vác vai Stinger cùng với hai quả đạn tên lửa.[5]
Cuối cùng, hệ thống M163 đã được quân đội Mỹ thay thế bằng hệ thống M1097 Avenger và M6 Linebacker, được phát triển dựa trên xe thiết giáp M2 Bradley với tên lửa FIM-92 Stinger thay cho tên lửa chống tăng BGM-71 TOW: tên lửa Stinger giúp kíp chiến đấu có khả năng tiêu diệt máy bay trực thăng tấn công của đối phương trước khi nó tiếp cận đủ gần để phóng tên lửa chống tăng, cũng như giúp kíp chiến đấu chống lại các máy bay cánh cố định. Đơn vị Lục quân Mỹ cuối cùng đã loại biên hệ thống phòng không dựa trên pháo Vulcan từ năm 1994.
Một số loại đạn cỡ 20x102 mm được phát triển để sử dụng trên M163. Trong đó có đạn M246 HEI-T-SD sử dụng trong vai trò phòng không, trong khi đạn M56 HEI được sử dụng trong hỗ trợ tấn công mặt đất. Trong khi hệ thống nâng cấp PIVADS có thêm đạn xuyên giáp Mk 149, có phạm vi tác xạ hiệu quả lớn hơn nhiều nhờ có vận tốc cao hơn và không có cơ chế tự hủy.
Mã định danh | Kiểu | Trọng lượng đạn (g) | Lượng nổ (g) | Vận tốc đầu nòng (m/s) | Mô tả |
---|---|---|---|---|---|
M56A3/A4 | HEI | 102 | 9 g HE (RDX/wax/Al) và 1,5 g chất cháy | 1.030 | Không vạch đường. |
M246/A1 | HEI-T-SD | 102 | 8 g HE | 1.030 | Đạn vạch đường M56, M246 cũng sử dụng liều phóng như M56A3 và M246A1. Đạn vạch đường tự hủy sau 3-7 giây, ở cự ly khoảng 1.800 mét (5.900 ft) |
M940 | MPT-SD | 105 | 9 g A-4/RDX/wax | 1.050 | Đạn đa dụng, sử dụng cho cả Hải quân và trực thăng. Độ xuyên: 12,5 mm (0,49 in) giáp RHA ở góc chạm 0 độ cự ly 518 m (1.700 ft), 6,3 mm (0,25 in) góc chạm 60 độ cự ly 940 m (3.080 ft). |
Mk 149 | APDS | projectile: 93 penetrator 70 | none | 1.120 | Đạn ổn định tự quay 12 mm (0,47 in) dưới cỡ với thanh xuyên uranium nghèo. Độ xuyên: 23 mm (0,91 in) giáp ở góc chạm 45 độ từ cự ly 1.000 m (3.300 ft) và 19 mm (0,75 in) góc chạm 45 độ cự ly 2.000 m (6.600 ft)[6] |
M55 | TP | [7] | none | 1,030 | Đạn huấn luyện dựa trên đạn M53 |
M220 | TP-T | none | 1,030 | đạn huấn luyện vạch đường, thời gian cháy 1,9 giây |