Nablus

Nablus
Chuyển tự Tên khác
 • Tiếng Ả Rậpنابلس
 • Ngoài ra làNabulus (official)
Nablus năm 2013
Nablus trên bản đồ Nhà nước Palestine
Nablus
Nablus
Vị trí của Nablus tại Các vùng lãnh thổ của Palestine
Tọa độ: 32°13′13″B 35°16′44″Đ / 32,22028°B 35,27889°Đ / 32.22028; 35.27889
Vùng thủ hiếnNablus
Thành lập72 CE
Chính quyền
 • KiểuThành phố (from 1995)
 • Người đứng đầu thành phốGhassan Shakaa[1]
Diện tích
 • Phạm vi28,564 dunam (286 km2 hay 110 mi2)
Dân số (2014)
 • Phạm vi146,493
Múi giờUTC+2, UTC+3
Thành phố kết nghĩaPoznań, Dundee, Lille, Napoli, Stavanger, Firenze, Khasavyurt, Como, Toscana, Rabat, Fes
Websitewww.nablus.org

Nablus ( tiếng Ả Rập: نابلس Nāblus [næːblʊs] , tiếng Hebrew: שכם Šəḵem, Kinh thánh Shechem ISO 259-3 Škem, tiếng Hy Lạp: Νεάπολις Νeapolis) là một thành phố phía bắc Bờ Tây, khoảng 49 km về phía bắc Jerusalem, với dân số 126,132 người.[2] Tọa lạc giữa ngọn núi Ebal và núi Gerizim, là thủ phủ của khu tự trị Nablus và là trung tâm thương mại, văn hóa của người dân Palestine, đại học quốc gia An-Najah nằm tại thành phố này.[3]

Được thành lập bởi hoàng đế La Mã Vepasian năm 72 sau công nguyên, Nablus đã bị cai trị bởi nhiều đế chế trong suốt 2000..

 2006

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Một phần bản đồ địa hình Nablus

[4] Thành phố nằm  ở độ cao 550 m trên mực nước biển,[5] nằm tại một thung lũng hẹp giữa 2 dãy núi,núi Ebal nằm tại phía bắc, có độ cao 940m, núi Gerizim nằm phía nam và cao 881 m.

Nablus tọa lạc cách Tel Aviv 42 km về phía đông, cách 110 km về phía tây Amman, Jordan và 63 km phía bắc Jerusalem.[5] Nằm gần các thành phố, thị trấn khác như  Huwara và Aqraba về phía nam, Beit Furik về phía bắc, Tammun về phía đông bắc, Asira ash-Shamaliya về phía bắc và Kafr Qaddum , Tell về phía tây.[6]

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Khí hậu ôn đới Địa Trung Hải, mùa hè nóng và khô, mùa đông có mưa. Tháng nóng nhất là tháng 7,8 với nhiệt độ trung bình là 29,6 độ C. Tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt đọ thường là 6,2 độ C. Mưa thường xuyên từ tháng 10 đến tháng 3, lượng mưa xấp xỉ 656mm.[5]

Nhân khẩu học

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Dân số
1596 4,300[7]
1849 20,000[8]
1860 15,000[9]
1922 15,947[10]
1931 17,498[10]
1945 23,250[11]
1961 45,773[12]
1987 93,000[13]
1997 100,034[14]
2007 126,132[2]
2014 146,493
Sảnh cầu nguyện nhà thờ Hồi giáo  Hanbali 

Quan hệ quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
 Ảnh panorama phía đông Nablus và ngon Ebal phía bên trái
  • List of cities administered by the Palestinian National Authority
  • List of people from Nablus
  • Shechem, the Biblical city which occupied the same location

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Abdullah H. Erakat, Nablus Handicrafts Project Aims for Regional Tourism The Medialine,ngày 24 tháng 2 năm 2014
  2. ^ a b PCBS07,2007 Locality Population Statistics Lưu trữ 2019-04-09 tại Wayback Machine.
  3. ^ Amahl Bishara, 'Weapons, Passports and News: Palestinian Perceptions of U.S. Power as a Mediator of War,' in John D. Kelly,Beatrice Jauregui,Sean T. Mitchell,Jeremy Walton (eds.
  4. ^ “Nablus”. AsiaRooms. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2008.
  5. ^ a b c “History”. Nablus.ps. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2008.
  6. ^ “Detailed Map of the West Bank”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2008.
  7. ^ Hütteroth and Abdulfattah, 1977, p.5.
  8. ^ Doumani, Beshara.
  9. ^ Sabbagh, Karl. (2008) Palestine: History of a Lost Nation Grove Press.
  10. ^ a b Welcome to Nablus Palestine Remembered. 1922 and 1931 results obtained from British records.
  11. ^ Hadawi, Sami. “Village Statistics of 1945: A Classification of Land and Area ownership in Palestine”. Palestine Liberation Organization – Research Center.
  12. ^ Census by Kingdom of Jordan
  13. ^ Census by Israel Central Bureau of Statistics
  14. ^ “Summary of Final Results: Population, Housing and Establishment Census-1997”. Palestinian Central Bureau of Statistics (PCBS). 1997. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2008.

Tài liêu tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tại sao một số người luôn muốn lan truyền sự căm ghét?
Tại sao một số người luôn muốn lan truyền sự căm ghét?
Căm ghét là một loại cảm xúc khi chúng ta cực kỳ không thích ai hoặc cái gì đó
The Lobster 2015 - Khi “Ế” chính là một cái tội
The Lobster 2015 - Khi “Ế” chính là một cái tội
The Lobster là một bộ phim viễn tưởng hài hước đen siêu thực năm 2015 do Yorgos Lanthimos đạo diễn, đồng biên kịch và đồng sản xuất
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
Ngay từ đầu mục đích của Jesper chỉ là lợi dụng việc những đứa trẻ luôn thích đồ chơi, dụ dỗ chúng viết thư cho ông già Noel còn mình thì nhanh chóng đạt được mục tiêu bố đề ra và trở lại cuộc sống vô lo vô nghĩ ngày nào
Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
BoJ đã chính thức trở thành ngân hàng cuối cùng trên thế giới nới lỏng chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo khi quốc gia này đang phải đối mặt với hàng thập kỷ giảm phát.