Nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam là nguồn nhân lực làm việc trong các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp công nghiệp công nghệ thông tin; nhân lực cho ứng dụng công nghệ thông tin; nhân lực cho đào tạo công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông và người dân sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin. Nguồn nhân lực này là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam.[1]
Theo quyết định số 05/2007/QĐ-BTTTT ngày 26/10/2007 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam đến năm 2020 có đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu riêng như sau:[1]
Mục tiêu chung:
Mục tiêu riêng:
Một số nhiệm vụ phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam theo Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin của nhà nước như sau:[1]
Vào năm 2010, theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, số lượng trường Cao đẳng, Đại học đào tạo về Công nghệ Thông tin - Truyền thông là 277 trường.[2]
Về việc tuyển sinh ngành công nghệ thông tin để chuẩn bị nhân lực ngành trong tương lai, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị với bộ cho phép tuyển sinh theo ba môn thi: toán, lý và ngoại ngữ (thông thường là tiếng Anh, thay vì môn hóa) để phù hợp với thực tế hiện nay. Khối thi này được gọi là khối A1, nhận được khá nhiều sự quan tâm của dư luận. Theo thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Bùi Văn Ga, khối A1 sẽ được áp dụng cho năm 2013 [3][4].
Việc đào tạo nhân lực công nghệ thông tin hiện nay đang vấp phải nhiều vấn đề khó khăn, được tóm gọn trong cụm từ "nhu cầu cao, chất lượng thấp". Theo PGS. Bùi Thế Duy, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho biết: "Mặc dù đang tồn tại tình trạng nhà nhà đào tạo CNTT nhưng nguồn nhân lực vẫn không đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng." Ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (Bộ Giáo dục và Đào tạo) nhận định việc đào tạo nhân lực công nghệ thông tin chỉ cơ bản đáp ứng về số lượng, nhưng chất lượng vẫn nhiều hạn chế.[5][6] Điều này dẫn tới hệ lụy các công ty làm về công nghệ thông tin đau đầu về việc tìm nhân lực và rất nhiều công ty buộc phải đào tạo nhân lực công nghệ thông tin mới có thể đáp ứng yêu cầu công việc. Vì vậy, các sinh viên sau khi ra trường phải tham gia các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ của doanh nghiệp và phải lấy chứng chỉ chuyên môn sâu về công nghệ thông tin và truyền thông của các tập đoàn như Microsoft, Oracle, Cisco,... thì mới có thể làm tốt công việc".
Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng có kế hoạc đẩy nhanh việc sử dụng tiếng Anh vào giảng dạy một số môn học ngành công nghệ thông tin tại các trường đại học, cao đẳng.[6]
Một số trường tiêu biểu về đào tạo ngành Công nghệ Thông tin bao gồm:
Theo số liệu thống kê của Vinasa vào ngày 25/08/2009, tổng nhân lực làm công nghệ thông tin của Việt Nam khoảng 250.000 người, khoảng 50.000 người trong số đó làm trong lĩnh vực phần mềm và nội dung số.[7]
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trần Đức Lai cho biết mục tiêu đầu ra cho 1 triệu lao động công nghệ thông tin đã được đảm bảo vào năm 2015.[8] Tuy nhiên, mục tiêu trên chưa chắc có thể đạt được khi thực tế từ năm 2004 chỉ có khoảng 10.000 chỉ tiêu ngành công nghệ thông tin mỗi năm.[9] Theo dự báo của nhà nước, đến năm 2015, các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin cần khoảng 554.000 lao động, trong đó khoảng 50% có trình độ cao đẳng và đại học trở lên. Năm 2020, mục tiêu đặt ra là có trên 90% giảng viên đại học và trên 70% giảng viên cao đẳng về công nghệ thông tin có trình độ thạc sĩ trở lên, trong số đó có trên 30% có trình độ tiến sĩ.
Theo khảo sát với hơn 500 lượt trong vòng 2 tuần của PCWorld Việt Nam cho thấy tạm thời, ngành công nghệ thông tin vẫn đang xếp ở vị trí cao nhất (40.89%) so với Tài chính – Ngân hàng (18.75%) và Quản trị kinh doanh (16.25%) về ngành nghề làm việc, học tập nếu có cơ hội chọn lại. Điều đó chứng tỏ nhân lực phục vụ cho ngành công nghệ thông tin vẫn có nhiều tiềm năng.[10]
Việc kham hiếm nguồn lực nhân lực công nghệ thông tin trong thị trường lao động vẫn đang nóng bỏng khó giải quyết, ông Trần Mạnh Huy, Giám đốc FPT IS tại Đà Nẵng cho biết hiện tượng chủ yếu là do người giỏi chuyên môn thì kém ngoại ngữ và ngược lại.[11]
Kỹ năng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh là một kỹ năng buộc phải có đối với nhân lực công nghệ thông tin khi đa số tài liệu, văn bản hướng dẫn, kỹ thuật, công nghệ cũng như nội dung các môn học, phần mềm về công nghệ thông tin - truyền thông và các công việc thực tế đa số dùng tiếng Anh. Hơn nữa tiếng Anh còn thông dụng trao đổi với khách hàng, đối tác quốc tế trong ngành công nghệ thông tin, truyền thông.
Theo nhiều doanh nghiệp tuyển dụng, sinh viên tốt nghiệp làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin còn rất hạn chế về kỹ năng giao tiếp ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Một thực tế đáng lo ngại trong quá trình hội nhập công nghệ thông tin Việt Nam với thế giới là 90% nhân sự có trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế. Hơn nữa, theo ông Nguyễn Đình Thắng, Phó Chủ tịch Vinasa cho biết với nguồn nhân lực hiện có với chất lượng đào tạo và chuyên môn về công nghệ thông tin đã được trang bị thì vẫn còn kém về phần mềm và ngoại ngữ.[12]
Nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam thật sự cần một "tư duy mở". Thạc sĩ Hà Hoàng Huy, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Phần mềm Sài Gòn SSP chia sẻ các kỹ sư công nghệ thông tin thường giỏi về tư duy logic, làm việc độc lập, nhưng lại kém về giao tiếp, kỹ năng trình bày và sự thuyết phục hiệu quả. Bên cạnh tư duy logic và làm việc độc lập, yêu cầu xã hội cần nhân lực công nghệ thông tin phải có tư duy tổng thể, tư duy kinh doanh và tư duy dịch vụ khách hàng.[13]
Chất lượng nhân sự được hình thành từ ba yếu tố: nền giáo dục, sự tự học và đào tạo của công ty. Tuy nhiên tại Việt Nam, chất lượng của hệ thống giáo dục chưa được tốt, ví dụ như việc đào tạo và phát triển các kỹ năng mềm. Do đó, chất lượng nhân sự đều phụ thuộc vào hai yếu tố: sự tự học và việc đào tạo huấn luyện của công ty.
Một số ngành nghề phổ biến liên quan đến nguồn nhân lực công nghệ thông tin như:[11][14]
Danh sách một số công ty, doanh nghiệp công nghệ thông tin tại Việt Nam như sau:[15]
|ngày=
(trợ giúp)[liên kết hỏng]
|tên bài=
và |title=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày truy cập=
và |accessdate=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)
|ngày=
(trợ giúp)