Nhật Nam (chữ Hán: 日南) là một địa danh cũ ở Việt Nam thời Bắc thuộc.
Quận Nhật Nam có vị trí bắt đầu từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến đèo Cả (Phú Yên). Theo Hán thư, quận này thành lập năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN) thời Hán Vũ Đế[1], bao gồm 15.400 hộ, 69.485 khẩu[1], chưa bằng nửa Cửu Chân (35.743 hộ, 166.013 khẩu)[1] và chỉ bằng 1/6 Giao Chỉ (92.440 hộ, 746.237 khẩu)[1]. Toàn quận chia làm 5 huyện:
Thời Vương Mãng, quận Nhật Nam đổi thành đình Nhật Nam[1]. Năm 192, Khu Liên nổi dậy ổ huyện Tượng Lâm để thành lập vương quốc riêng gọi là Lâm Ấp. Thời Đông Ngô Nhật Nam đổi làm tỉnh[3]. Đến năm Thái Khang thứ 3 (282) thời Tấn Vũ Đế lại đổi thành quận[3]. Đến thời Lưu Tống, quận Nhật Nam gồm 7 huyện: Tây Quyển, Lô Dung, Tượng Lâm, Thọ Linh (tách từ Tây Quyển), Chu Ngô, Vô Lao (tách từ Bắc Cảnh), Bắc Cảnh[3].
Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt. Học giả Aurousseau dẫn Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên nói năm Nguyên Đỉnh 6 (111 TCN), Hán Vũ Đế đặt quận Nhật Nam, quận trị là Tây Quyển[4]. Nhưng đến khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (39-43), Mã Viện mới chỉ tiến vào đến huyện Cư Phong (Thanh Hóa) là chặng cuối. Theo một số học giả [5], tì tướng của Mã Viện có thể vượt xa hơn chút ít nhưng chắc cũng chưa vào đến sông Gianh.
Các nhà nghiên cứu hiện nay dẫn các ý kiến, của H. Maspero (Pháp), Vũ Phạm Khải (Việt Nam), Tá Bá Nghĩa Minh (Nhật Bản), thống nhất khẳng định: Tượng quận mới được Tần Thủy Hoàng mở trong cuộc Chiến tranh Tần–Việt ở phía nam Trung Hoa, trong đó quân Tần mới chỉ tiến tới Quảng Tây[6][7]. Tượng quận thời Tần thuộc Quảng Tây, không phải Nhật Nam thời Hán từ Quảng Bình trở vào Bình Định. Sở dĩ có sự nhầm lẫn đồng nhất Tượng quận thời Tần và Nhật Nam thời Hán, vì quận Nhật Nam thời Hán có huyện Tượng Lâm ở cực nam: Tượng quận là cực nam của đế chế Tần và Tượng Lâm ở cực nam đế chế Hán[7]
Theo một số nghiên cứu, tên gọi Nhật Nam ban đầu chỉ là một khái niệm.
Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử ký viết: …南至北鄉戶[8] ("Nam chí bắc hương [hướng] hộ"). Tạm dịch: "...phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc". Sử ký tập giải (史記集解) của Bùi Nhân (裴駰)[9] thời Lưu Tống dẫn Ngô đô phú[10] của Tả Tư (左思, ~250 - ~305) viết: 開北戶以向日 ("Khai bắc hộ dĩ hướng nhật", nghĩa là Mở cửa hướng bắc để đón ánh mặt trời). Lưu Quỳ (刘逵) thời Tống Huy Tông giải nghĩa: 日南之北户,犹日北之南户也 ("Nhật nam chi bắc hộ, do nhật bắc chi nam hộ dã" nghĩa là phía nam mặt trời thì làm cửa quay mặt về hướng bắc, cũng như phía bắc mặt trời thì cửa nhà quay mặt về hướng nam vậy).
Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật Nam ban đầu chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất nước Trung Hoa ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó Mặt Trời dối với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rõ nhất trong ngày Đông chí đêm dài ngày ngắn, Mặt Trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. Vì vậy khi tế trời (cúng Mặt Trời) thiên tử - con trời - phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời nhà Tần, người Hoa đã biết Trái Đất hình tròn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được quỹ đạo của Mặt Trời (hoàng đạo) và suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào đó, muốn nhìn thấy Mặt Trời, muốn hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người phải làm nhà quay mặt về hướng bắc.
Tư Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Hoa chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam mà chỉ dựa theo các tư duy triết học chính trị-xã hội-văn hóa của mình. Quan điểm này dựa vào kiến thức thiên văn hạn chế của người Hoa cách đây 21 thế kỷ. "Vùng nhà cửa quay mặt về hướng bắc" theo logic Sử Ký, trên cơ sở văn minh thiên văn thế giới cận đại và hiện đại, phải ở nằm dưới vĩ độ 23 độ 27 phút Nam (đi qua thành phố Rockhamton tại bang Queensland của nước Úc)[11]