Phạm Đăng Lân | |
---|---|
Chức vụ | |
Giám đốc Tân cảng Sài Gòn | |
Nhiệm kỳ | 11/1966 – 12/1967 |
Cấp bậc | -Chuẩn tướng (10/1964) |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 1/1965 – 11/1966 |
Cấp bậc | -Chuẩn tướng |
Kế nhiệm | -Đại tá Nguyễn Chấn |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công Binh | |
Nhiệm kỳ | 11/1963 – 1/1965 |
Cấp bậc | -Đại tá (11/1963) -Chuẩn tướng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Quyền Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công Binh | |
Nhiệm kỳ | 12/1962 – 11/1963 |
Cấp bậc | -Trung tá (12/1955) |
Tiền nhiệm | -Trung tá Trần Ngọc Thức |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Liên Đoàn trưởng Liên đoàn 4 Công binh kiêm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Công binh | |
Nhiệm kỳ | 6/1957 – 12/1962 |
Cấp bậc | -Trung tá |
Vị trí | Quân khu Thủ đô |
Chỉ huy trưởng Trường Công binh | |
Nhiệm kỳ | 3/1955 – 6/1957 |
Cấp bậc | -Thiếu tá (3/1955) -Trung tá |
Vị trí | Quân khu Thủ đô |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Pháp Việt Nam Cộng hòa |
Sinh | Tháng 3 năm 1927 Sài Gòn, Việt Nam |
Mất | 30 tháng 3 năm 2017 Montpellier, Pháp |
Nơi ở | Montpellier, Pháp |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Họ hàng | Các em: Phạm Kim Quy Phạm Thị Phụng Phạm Kim Tấn Phạm Kim Tài Phạm Thị Loan Phạm Thị Kim Anh Phạm Kim Luông |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Alma mater | -Trường Trung học chương trình Pháp tại Sài Gòn -Trường võ bị Viễn Đông Nước Ngọt, Vũng Tàu -Trường Quân sự Saint Cyr (Coetquidan), Pháp -Trường đào tạo chuyên môn ngành Công Binh tại Angers, Pháp -Trường Chỉ huy Tham mưu Fort Leavenworth, Hoa Kỳ |
Quê quán | Nam Kỳ |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân lực VNCH |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1947-1967 |
Cấp bậc | Chuẩn tướng |
Đơn vị | Cục Công binh Tổng cục Tiếp vận |
Chỉ huy | QĐ Liên hiệp Pháp Quân đội Quốc gia Quân lực VNCH |
Tham chiến | -Chiến tranh Đông Dương -Chiến tranh Việt Nam |
Phạm Đăng Lân (1927-2017), nguyên là cựu tướng lĩnh thuộc ngành Tiếp vận của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa 2 trường Võ bị Viễn Đông do Chính quyền thuộc địa Pháp mở ra tại một tỉnh thuộc Duyên hải miền Đông Nam phần Việt Nam với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Trong thời gian tại ngũ, ông chỉ phục vụ trong ngành chuyên môn của mình.
Ông sinh vào tháng 3 năm 1927 tại Sài Gòn trong một gia đình thương nhân. Năm 1946, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Sài Gòn với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Mùa thu năm 1947, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 47/101.388. Theo học khóa Đỗ Hữu Vị trường Sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu,[1] khai giảng vào tháng 8 năm 1947. Tháng 6 năm 1948, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Sau khi đậu cuộc thi tuyển ông được cử đi du học tai Pháp tại Học viện Quân sự Coetquidan Saint Cyr, Pháp, khóa Promotion Général Leclerc, khai giảng tháng 10/1948, mãn khóa tháng 8/1949. Sau đó ông theo dự khóa tu nghiệp chuyên môn về ngành công binh tại Angers, Pháp, khai giảng tháng 10/1949, mãn khóa tháng 8/1950. Ra trường, ông được tuyển chọn vào ngành Công binh với chức vụ Trung đội trưởng của Đại đội 2 Công binh chiến đấu thuộc Đệ nhị Quân khu.
Năm 1950, chuyển sang phục vụ cho Quân đội Quốc gia ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm, sau đó được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 2 Công binh chiến đấu. Đầu năm 1953, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh chiến đấu.
Cuối tháng 3 năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử vào chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Công binh. Cuối tháng 10 cùng năm, nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, đồng thời Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tháng 12 cuối năm, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.
Giữa năm 1957, ông được giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn 4 Công binh kiêm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Công binh. Đến cuối năm 1962 Ông được chỉ định vào chức vụ quyền Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh. Đầu năm 1963, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ (mãn khóa Tháng12 Năm1962). Sau khi mãn khóa về nước ông tiếp tục giữ chức vụ quyền Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công Binh.
Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (1 tháng 11). Ngày 5 tháng 11, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm và chính thức được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Công binh.[2]
Tháng 10 năm 1964, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Qua đầu năm 1965, ngành Công binh được đổi tên thành Cục Công binh và ông trở thành Cục trưởng đầu tiên.
Tháng 11 năm 1966 đến cuối năm 1967 ông được cử làm Giám đốc Tân Cảng Sài Gòn
Tháng 12 năm 1967, ông được giải ngũ (hồi hưu). Khi trở về đời sông dân sự, ông tiếp tục học lên Đại học Dược khoa. Tốt nghiệp trở thành Dược sĩ (Dec 1970)
Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó được đi định cư ở Paris, Pháp. Ông đi làm tại bệnh viện Quân đội Pháp ở Bercy, Paris và học lại bằng Dược Sĩ tại Đại học Paris, tốt nghiệp vào tháng 6 năm 1987.
Ngày 30 tháng 3 năm 2017 ông từ trần tại nơi định cư cuối cùng Montpellier, Pháp, hưởng thọ 90 tuổi.