| |
Hành chính | |
---|---|
Quốc gia | Pháp |
Vùng | Occitanie |
Tỉnh | Hérault |
Quận | Montpellier (quận) |
Tổng | Chef-lieu |
Thống kê | |
Độ cao | 7–57 m (23–187 ft) (bình quân 27 m (89 ft)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ]) |
INSEE/Mã bưu chính | 34172/ 34000, 34070, 34080, 34090 |
Montpellier là thành phố miền Nam, là tỉnh lỵ của tỉnh Hérault, thuộc vùng hành chính Occitanie của nước Pháp. Montpellier nằm giữa Nime và Bezier, gần với biển Địa Trung Hải, có dân số là 251.000 người (năm 2006). Montpellier nằm trên trục giữa phía Bắc Tây Ban Nha và phía Tây Italia. Kể từ năm 2001, Montpellier chia làm 7 khu vực hành chánh quan trọng: Montpellier centre, Croix d’argent, les Cévennes, Mosson, Hôpitaux-Facultés, Port-Marianne, Prés-Arènes
Montpellier là thành phố tương đối sạch.
Montpellier là thành phố lớn thứ 8 của Pháp, là thành phố lớn thứ hai vùng hành chính Occitanie và tỉnh Hérault. Là thành phố lớn thứ 3 sau Marseille và Nice ở khu vực Địa Trung Hải. Mật độ dân số thành phố liên tục tăng trong vòng 50 năm trở lại đây.
Montpellier nằm cách biển Địa Trung Hải 10 km theo đường bộ, cách núi gần nhất 75 km (Đỉnh Aigoual 1 567 m, thuộc tỉnh Gard).
Thành phố Montpellier nằm rất gần với biển. Vị trí cao nhất là quảng trường Payrou cao 57m so với mặt nước biển. thành phố được hình thành và phát triển trên 2 ngọn đồi là: Montpellier và Montpellieret. Những con dường dẫn lên đây thường nhấp nhô, khó đi. Ở Montpellier có hai con sông lớn bắt ngang là le Lez ở phía Đông và Mosson ở phía Tây. Montpellier được mở rộng theo hướng bờ biển bằng việc hình thành nhưng khu dân cư mới ở phía Nam thành phố như Antigone, Port Marianne, Richter). Vào những năm 1977, Montpellier trở thành tuyến hằng hải quan trọng nối liền Gênes và Barcelone. Thành phố Montpellier có diện tích 5688 hectares. Đất thổ cư chiếm khoảng ba phần năm tổng diện tích, phần còn lại là các công viên, khu bảo tồn (Zoologique Lunaret và Bois de Montmaur) và đất canh tác (gần 180ha đất nông nghiệp phần lớn là các ruộng nho) các vùng canh tác nho nổi tiếng như phía Đông (Montaubérou, Valédeau, Faugergues), phía Nam (méjanelle, Mogère,..) phía Bắc (plan 4 Seigneurs), phía Tây (château-Bon, Bionne, Rieucoulon)
Khí hậu Montpellier ảnh hưởng khí hậu vùng Địa Trung Hải, lượng mưa trung bình hàng năm ít, đôi khi có mưa rào to vào mùa thu từ tháng 9 đến tháng 12. Ngược lại, mùa hè khí hậu khô và có giông vào tháng 8. Nhiệt độ trung bình trong năm là 14,2 độ C, cao hơn mức trung bình của Pháp là 12,2 độ C.
Dữ liệu khí hậu của Montpellier (1981–2010) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 21.2 (70.2) |
22.5 (72.5) |
27.4 (81.3) |
30.4 (86.7) |
35.1 (95.2) |
37.2 (99.0) |
37.5 (99.5) |
36.8 (98.2) |
36.3 (97.3) |
31.8 (89.2) |
27.1 (80.8) |
22.0 (71.6) |
37.5 (99.5) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 11.6 (52.9) |
12.8 (55.0) |
15.9 (60.6) |
18.2 (64.8) |
22.0 (71.6) |
26.4 (79.5) |
29.3 (84.7) |
28.9 (84.0) |
25.0 (77.0) |
20.5 (68.9) |
15.3 (59.5) |
12.2 (54.0) |
19.9 (67.8) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 2.8 (37.0) |
3.3 (37.9) |
5.9 (42.6) |
8.7 (47.7) |
12.5 (54.5) |
16.0 (60.8) |
18.9 (66.0) |
18.5 (65.3) |
15.0 (59.0) |
11.9 (53.4) |
6.8 (44.2) |
3.7 (38.7) |
10.4 (50.7) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −15.0 (5.0) |
−17.8 (0.0) |
−9.6 (14.7) |
−1.7 (28.9) |
0.6 (33.1) |
5.4 (41.7) |
8.4 (47.1) |
8.2 (46.8) |
3.8 (38.8) |
−0.7 (30.7) |
−5.0 (23.0) |
−12.4 (9.7) |
−17.8 (0.0) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 55.6 (2.19) |
51.8 (2.04) |
34.3 (1.35) |
55.5 (2.19) |
42.7 (1.68) |
27.8 (1.09) |
16.4 (0.65) |
34.4 (1.35) |
80.3 (3.16) |
96.8 (3.81) |
66.8 (2.63) |
66.7 (2.63) |
629.1 (24.77) |
Số ngày giáng thủy trung bình | 5.5 | 4.4 | 4.7 | 5.7 | 4.9 | 3.6 | 2.4 | 3.6 | 4.6 | 6.8 | 6.1 | 5.6 | 57.8 |
Số ngày tuyết rơi trung bình | 0.6 | 0.7 | 0.3 | 0.0 | 0.0 | 0.0 | 0.0 | 0.0 | 0.0 | 0.0 | 0.1 | 0.7 | 2.4 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 75 | 73 | 68 | 68 | 70 | 66 | 63 | 66 | 72 | 77 | 75 | 76 | 70.8 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 142.9 | 168.1 | 220.9 | 227.0 | 263.9 | 312.4 | 339.7 | 298.0 | 241.5 | 168.6 | 148.8 | 136.5 | 2.668,2 |
Nguồn 1: Meteo France[1][2] | |||||||||||||
Nguồn 2: Infoclimat.fr (độ ẩm, ngày tuyết rơi 1961–1990)[3] |
Bá tước Melgueil là người đầu tiên đặt tên cho thành phố là Montpellier năm 985. Tiếp sau đó, những vùng lân cận như Nimes, Narbonne, Béziers hay Carcassonne được hình thành vào thời kì La Mã vào thế kỉ thứ 11. Nằm giữa Tây Ban Nha và Ý, gần với hải cảng Lattes, thành phố Montpellier nhanh chóng trở thành 1 trung tâm giao lưu văn hoá, kinh tế, mỹ nghệ, kim hoàn giữa khu vực Bắc Âu với Tây Ban Nha nói riêng và cả vùng Địa Trung Hải nói chung. Sau cái chết của bá tước Guilhem VIII ngày 9 thánh 11 năm 1202, đánh dấu chấm hết cho sự cai trị của triều đại nhà Guilhem mở dường cho việc hình thành chính quyền thành phố theo nền cộng hòa. Vào thời kì Trung cổ, nhà thờ Notre – Dame - des tables là nơi tập trung những người hành hương đến từ Saint - Jacques-de - Compostelle. Điều này kéo theo sự hình thành các viện bệnh và viện nhà cứu trợ. Các bác sĩ người do thái và ả rập dưới sự săn đuổi của người Tây Ban Nha tập trung lại đây và cho ra đời trường y Montpellier (l’école Médecine de Montpellier) năm 1220 dưới quyền lãnh đạo của cha sứ Honorius III. Đây cũng được xem là một trong những trường Y khoa lâu đời nhất của Pháp. Vào những năm đầu của thế kỉ XVII và XVIII, giới quý tộc Montpellier bắt đầu hình thành một thú vui xây dựng nhiều cung điện nguy nga và nhiều vườn hoa. Một trong những nơi đẹp nhất là l’hôtel de Guidais, vườn Peyrou. Quảng trường Comédie và L’arc de triomphe – Esplanade du Peyrou được xây dựng dưới lệnh của vua Louis XIV vào thế kỉ XVII. Vào thời điểm chiến tranh thế giới lần thứ hai, ngày 13 tháng 2 năm 1941, dưới sự dẫn dắt của thống chế Pétain, chính phủ Pháp lâm thời, đã có cuộc gặp gỡ với tướng Franco (bấy giờ là người lãnh đạo nhà nước thân phát xit ở Tây Ban Nha). Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, một lần nữa Montpellier lại được vinh hạnh là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ ký kết về hợp tác song phương giữa tổng Francois Mitterrand. thủ tướng Michel Rocard và thủ tướng Tây Ban Nha Felipe Gonzaléz vào ngày 23, 24 tháng 11 năm 1988.
Giao thông trong thành phố khá thuận tiện, rất it khi xảy ra hiện tượng kẹt xe nhiều giờ liền. vì thế, Montpellier có rất ít những bãi đậu xe miễn phí và thành phố nghiêm cấm việc đậu xe quá 24 tiếng tại cùng một địa điểm. Ngoài ra, thành phố khuyên khách du lịch đến đây nên để lại xe ở các bãi dậu xe ở ngoại ô thành phố và sử dụng phương tiện công cộng để di vào tham quan thành phố.
Giao thông công cộng ở Montpellier được chia làm 4 dạng (bus, tramway, xe đạp thuê theo giờ và xe chuyên chở chung). Thành phố Montpellier được chia ra làm 2 tuyến tramway đã đi vào sử dụng và 2 đang trong giai đoạn thi công:
Gare lớn nhất ở Montpellier có tên là Saint Roch được đặt tên tháng 3 năm 2005. Với TGV bạn chỉ mất 3h15 để có thể đi từ Montpellier đến gare de Lyon (Paris). tuyến đường sắt của montpellier nằm trên trục Nime-Narbonne-Toulouse - Bordeaux - Barcelone.
Montpellier hiện có 3 trường Đại học (Universités) và 5 trường lớn (Grands Ecoles)
Là trường Đại học đào tạo chủ yếu tập trung vào các nhóm ngành Kinh tế, Luật, Y học, Dược, Thể thao và nhiều lĩnh vực chuyên ngành thuộc các lĩnh vực trên.
Là trường Đại học đào tạo chủ yếu các nhóm ngành thuộc khoa học tự nhiên và kỹ thuật như: Toán, Công nghệ thông tin, Hóa học, Vật lý, Sinh học, Khoa học Trái Đất và Môi trường, Vật liệu, Cơ khí, Xây dựng.
Là trường Đại học đào tạo chủ yếu các nhóm ngành nghệ thuật, văn chương, xã hội nhân văn, ngôn ngữ như: Văn học, Lịch sử, Ngôn ngữ, Khảo cổ, Du lịch, Âm nhạc.
Đào tạo chủ yếu các ngành liên quan đến Nông nghiệp và phục vụ Nông nghiệp, Nông thôn
Đào tạo các ngành liên quan đến kiến trúc, quy hoạch và xây dựng
Đào tạo các ngành liên quan đến thương mại, quản lý, MBA, một số ngành liên kết với trường Đại học Montpellier 1
Đào tạo các ngành liên quan đến hóa học, vật liệu và công nghệ hóa học