Pyura chilensis

Pyura chilensis
Piure trên trai sò, đánh bắt ở Valparaíso Region
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Phân ngành (subphylum)Tunicata
Lớp (class)Ascidiacea
Bộ (ordo)Pleurogona
Phân bộ (subordo)Stolidobranchia
Họ (familia)Pyuridae
Chi (genus)Pyura
Loài (species)P. chilensis
Danh pháp hai phần
Pyura chilensis
(Molina, 1782)

Pyura chilensis, được gọi piure trong tiếng Tây Ban Nha, là một loài động vật của họ Pyuridae. Nó được mô tả năm 1782 bởi Juan Ignacio Molina.[1]

Pyura chilensis là một loài động vật sống đuôi tương tự như một khối cơ quan bên trong một tảng đá. Nó thường được tìm thấy trong tụ tập dày đặc trên các bãi biển của ChilePeru. Nó kiếm ăn bằng cách hút nước biển và lọc ra các vi sinh vật.

P. chilensis có một số đặc điểm cơ bản chung của động vật có xương sống như có dây sống và khoang hầu. Nó sinh ra là con đực, trở thành lưỡng tính khi lớn lên và sinh sản bằng cách tung những đám mây tinh trùng và trứng vào nước xung quanh. Nếu nó ở một mình, nó sẽ sinh sản bằng cách tự thụ tinh.[2]

Máu của nó chứa nồng độ cao của vanadi, có thể là mười triệu lần tìm thấy trong nước biển xung quanh; mặc dù nguồn và chức năng của nguyên tố này không rõ.[3]

Ngư nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Trên bờ biển Chile, các đàn P. chilensis được đánh bắt rất nhiều.[4] Loài động vật này cũng là một trong những nguồn thực phẩm chính đối với các loài thủy sản địa phương khác như bào ngư Chile (Concholepas concholepas), sự gia tăng mạnh của bào ngư Chile đã đe dọa và hạn chế nghiêm trọng sự tăng trưởng của P. chilensis trong hơn hai thập kỷ.

Ngư dân địa phương thường mặc "wet suit" và kính bảo hộ để thu gom chúng, chủ yếu ở vùng núi đá gần bờ, nhưng đôi khi xa hơn ra biển.

Ngư dân thường cắt P. chilensis thành lát với cưa tay, sau đó sử dụng ngón tay để kéo vòi hút (mà họ gọi là tetas, hoặc "vú") từ vỏ. Thịt thường được bán khi còn tươi, nhưng có thể được đóng hộp. Nó được xuất khẩu sang nhiều nước, đến năm 2007, Thụy Điển (32,5%) và Nhật Bản (24,2%).[5]

Ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]
Piure ăn sống ở Valparaíso

Thịt, có một hương vị mạnh, có thể ăn sống hoặc nấu chín. Hương vị của nó được mô tả là tương tự như của iod[6] hay "một cái gì đó giống như một con nhím biển mặc dù ít tinh tế trong hương vị" và "hơi đắng, vị như xà phòng".[7] Nó thường được cắt thành miếng nhỏ, và pha thêm gia vị với hành tây, rau mùi, và chanh vàng. Thái nhỏ và dun sôi,, nó được phục vụ như một phần của nhiều món ăn, đặc biệt là arroz con piure picado, hay "cơm với piure thái nhỏ". Nó cũng có thể được chiên và ăn với bánh mì.

Có những lo ngại về sự an toàn của việc ăn P. chilensis, như nồng độ cao của vanadi, lên đến 1,9 mg/ kg được tìm thấy trong huyết tương khô.[8] Vanadi là một kim loại nặng, được coi là độc hại.[9] Chế độ ăn uống trung bình cung cấp một lượng nhỏ vanadi; thường 6-18 microgram (µg).[10] Theo Đại học Trung tâm Y tế Maryland, vanadi có thể gây tổn thương gan ở liều lương cao 1,8 mg hoặc nhiều hơn mỗi ngày.[10] Không có nghiên cứu chuyên sâu đã được thực hiện để xác định số lượng vanadi chứa trong máu hoặc mô của P. chilensis, cũng không trong các món ăn điển hình có chứa thịt của nó.[cần dẫn nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “WoRMS taxon details—Pyura chilensis Molina, 1782”. Cơ sở dữ liệu sinh vật biển. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  2. ^ Patricio H. Manríquez; Juan Carlos Castilla. “Self-fertilization as an alternative mode of reproduction in the solitary tunicate Pyura chilensis” (PDF). Marine Ecology Progress Series. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2014.
  3. ^ Crew, Becky (ngày 21 tháng 6 năm 2012). “Pyura chilensis: the closest thing to getting blood from a stone” ("Running Ponies" web log). Scientific American. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  4. ^ Andrew R. Davis (1995). “Over-exploitation of Pyura chilensis (Ascidiacea) in southern Chile: the urgent need to establish marine reserves” (PDF). Revista Chilena de Historia Natural.
  5. ^ Tapia Jopia, Carlos; Toledo, Nancy Barahona (tháng 2 năm 2007). “Pesquería de Pyura chilensis (Molina 1782) (Tunicata, Ascidiacea, Pyuridae)” (Informe Técnico BIP No. 30043687-0). Investigación Situación Pesquerías Bentónicas, 2006 (bằng tiếng Tây Ban Nha). Instituto de Fomento Pesquero (IFOP). tr. ii. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  6. ^ “Larval Metamorphosis: Piure heaven”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2014.
  7. ^ “Piure: the world's strangest seafood?”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2012.
  8. ^ Roman, Domingo A.; Molina, Justa; Rivera, Lidia (1988). “Inorganic Aspects of the Blood Chemistry of Ascidians. Ionic Composition, and Ti, V, and Fe in the Blood Plasma of Pyura chilensis and Ascidia dispar”. Biol. Bull. 175 (1): 154–166. doi:10.2307/1541903.
  9. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2014.
  10. ^ a b Vanadium | University of Maryland Medical Center

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Jujutsu Kaisen chương 264: Quyết Chiến Tại Tử Địa Shinjuku
Jujutsu Kaisen chương 264: Quyết Chiến Tại Tử Địa Shinjuku
Tiếp diễn tại chiến trường Shinjuku, Sukuna ngạc nhiên trước sự xuất hiện của con át chủ bài Thiên Thần với chiêu thức “Xuất Lực Tối Đa: Tà Khứ Vũ Thê Tử”.
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Trong thế giới chuyến sinh thành slime các ác ma , thiên thần và tinh linh là những rạng tồn tại bí ẩn với sức mạnh không thể đong đếm
Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới như thế nào?
Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới như thế nào?
Chưa bao giờ trong lịch sử có nền kinh tế của một quốc gia hồi phục nhanh như vậy sau chiến tranh và trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Nhân vật Yuki Tsukumo - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Yuki Tsukumo - Jujutsu Kaisen
Yuki Tsukumo là một trong bốn pháp sư jujutsu đặc cấp