Sông Lô

Sông Lô
Sông Lô, đoạn chảy qua Phú Thọ
Vị trí
Quốc giaTrung Quốc, Việt Nam
Đặc điểm địa lý
Thượng nguồnLưu Lung, Vân Nam
 • cao độ2.000 m (6.562 ft)
Cửa sôngSông Hồng
Độ dài470 km (292 dặm)
Diện tích lưu vực39.000 km² (15.058 dặm²)
Lưu lượng1.010 m³/s (35.668 ft³/s)
Sông Lô đoạn phía nam thành phố Hà Giang.
Sông Lô đoạn chảy qua thành phố Tuyên Quang.

Sông Lôphụ lưu cấp 1 ở tả ngạn sông Hồng, chảy từ Trung Quốc sang các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Phú ThọVĩnh Phúc, Việt Nam [1][2].

Sông bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, gọi là Bàn Long Giang (盘龙江, Pan Long Jiang). Sông chảy vào Việt Nam tại xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Điểm cuối là ngã ba Hạc, còn gọi là ngã ba Bạch Hạc hay ngã ba Việt Trì, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, nơi sông Lô đổ vào sông Hồng [1].

Tổng diện tích lưu vực: 39.000 km², trong đó phần ở Việt Nam là 22.600 km².

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn sông Lô còn có tên là "sông Cả" hay sông Bình Nguyên[3]. Sông Lô còn có tên là Tuyên Quang giang (宣光江)[4].

Trong văn liệu tiếng Pháp sông có tên "rivière Claire" nghĩa chữ là "sông Sáng". Tên này không có nguồn gốc tiếng Việt, mà là do hồi giữa thế kỷ 19 người Pháp vẽ bản đồ Bắc Kỳ, ví dụ "Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879" của Jean Dupuis[5], khi thấy "sông Hồng" gọi là "fleuve Rouge" (sông Đỏ) thì đã dùng "rivière Noire" (sông Đen) ghi cho sông Đà, "rivière Claire" cho sông Lô.

Dòng chảy

[sửa | sửa mã nguồn]

Đoạn sông Lô chảy ở Việt Nam có chiều dài 274 km (các sách khác nhau ghi từ 264 km tới 277 km), là một trong năm con sông dài nhất ở miền Bắc Việt Nam (Hồng, Đà, Lô, Cầu, Đáy).

Sông Lô vào địa phận Việt Nam ở xã Thanh Thủy, Vị Xuyên. Sông chảy qua Vị Xuyên, thành phố Hà Giang, Bắc Quang, Hàm Yên (có một đoạn dọc ranh giới Bắc Quang và Hàm Yên), Yên Sơn, thành phố Tuyên Quang, dọc theo ranh giới Yên Sơn và Sơn Dương rồi sang Đoan Hùng rồi lại dọc ranh giới Sơn Dương, Lập Thạch (phía đông) với Đoan Hùng, Phù Ninh, Việt Trì (phía tây). Sông Lô hợp lưu với sông Hồng ở ráp gianh giữa phường Bến Gót, phường Bạch Hạc (Việt Trì) và xã Tản Hồng (Ba Vì), cách chỗ sông Đà hợp lưu với sông Hồng khoảng 12 km.

Đoạn dài 156 km từ ngã ba Việt Trì đến cảng Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, các loại tàu thuyền có tải trọng 100 đến 150 tấn vận tải có thể hoạt động được cả hai mùa. Đoạn từ thành phố Tuyên Quang đến thành phố Hà Giang, các tàu thuyền có tải trọng nhỏ có thể tham gia vận tải được vào mùa mưa.

Phụ lưu

[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn Long Giang bắt nguồn từ Nghiễn Sơn. Đầu nguồn được đắp đập tạo thành hồ nhân tạo (Giá Y). Bàn Long Giang có một phụ lưu sau:

  • Chahe ở Văn Sơn;

Sông Lô có hai phụ lưu lớn là:

Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ khác như:

Các cây cầu bắc ngang sông Lô

[sửa | sửa mã nguồn]

Các bài hát, bài thơ về sông Lô

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ Kháng chiến chống Pháp:

  1. ^ a b Tập bản đồ hành chính Việt Nam. Nhà xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam. Hà Nội, 2013.
  2. ^ Quyết định số 1989/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục lưu vực sông liên tỉnh. Thuvienphapluat, 2016. Truy cập 12/05/2017.
  3. ^ Lê Quý Đôn toàn tập, Kiến văn tiểu lục, bản quốc ngữ, nhà xuất bản Khoa học xã hội 1977, trang 300.
  4. ^ Nguyễn Văn Siêu, Đại Việt địa dư toàn biên (bản chữ Hán) trang 69.
  5. ^ Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879, trong Il etait un Tonkin: Jean Dupuis. forez-info, 2012. Truy cập 22/04/2018.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan