Tố Hữu | |
---|---|
Chức vụ | |
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Bộ trưởng Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 7 tháng 2 năm 1980 – 21 tháng 6 năm 1986 6 năm, 134 ngày |
Chủ tịch (Thủ tướng) | Phạm Văn Đồng |
Tiền nhiệm | Phó chủ tịch Thường Trực Đầu tiên. |
Kế nhiệm | Võ Chí Công |
Vị trí | Việt Nam |
Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V | |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 12 năm 1976 – 21 tháng 6 năm 1986 9 năm, 183 ngày |
Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa IV | |
Nhiệm kỳ | 1976 – 1980 |
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 1968 – 1982 |
Tiền nhiệm | Trường Chinh |
Kế nhiệm | Bùi Thanh Khiết |
Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Chính phủ | |
Nhiệm kỳ | 1960 – 1/1963 |
Tiền nhiệm | đầu tiên |
Kế nhiệm | Lê Liêm |
Bí thư Trung ương Đảng khóa II, III, IV | |
Nhiệm kỳ | 1958 – 1980 |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương | 4 tháng 10, 1920
Mất | 9 tháng 12, 2002 Hà Nội, Việt Nam | (82 tuổi)
Nghề nghiệp | nhà thơ, chính khách |
Dân tộc | Kinh |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Vũ Thị Thanh |
Học vấn | Trường Quốc học Huế |
Tố Hữu | |
---|---|
Nghề nghiệp | Nhà thơ, chính khách |
Ngôn ngữ | Tiếng Việt |
Quốc tịch | Việt Nam |
Dân tộc | Kinh |
Giáo dục | Trường Quốc học Huế |
Giai đoạn sáng tác | 1936-2002 |
Thể loại | Thơ cách mạng |
Chủ đề | Cách mạng |
Trào lưu | Phong trào Thơ mới |
Tác phẩm nổi bật | Từ ấy, Việt Bắc |
Giải thưởng nổi bật | Giải thưởng Hồ Chí Minh Huân chương Sao vàng |
Phối ngẫu | Vũ Thị Thanh |
Con cái | (3) Nguyễn Thanh Hoa (con gái cả) Nguyễn Vũ Phương (con trai thứ) Nguyễn Minh Hồng (con gái út) |
Nguyễn Kim Thành, thường được biết đến với bút danh Tố Hữu (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002), là một cố nhà thơ kiêm chính trị gia người Việt Nam.
Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938, ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" (chữ Hán: 素有), lấy từ câu nói của Đỗ Thị[1] "Ngô nhi tố hữu đại chí" (吾兒素有大志). Tố Hữu (素有) có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng", viết bằng chữ Hán là "素友"
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại thành phố Huế, là con út trong gia đình. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho nghèo nhưng thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất yêu thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.[1]
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maksim Gorky,... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936, ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương..
Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. 3/1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum)[2][3] rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế.
Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt Phong trào Nhân văn – Giai phẩm (1958)[4]. Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khóa II và VII.
Năm 1969, ông được giao là người sửa cuối cùng bản điếu văn trong tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để giúp cho bản điếu văn hay hơn, đi vào lòng người hơn:
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành Đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Do phải chịu một phần trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên ông bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý hành chính, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (giải thưởng cao nhất về văn học tại Việt Nam) ngay trong đợt xét tặng đầu tiên (năm 1996).
Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là "nhà thơ của cách mạng", "nhà thơ của nhân dân", "ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam", "người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam", "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu", "nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng".[5]
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sĩ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Từ Cu-ba,...
Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người "đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ" hay "người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu" (nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh.[6]
Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 kì một số đoạn từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (kì số 3 vào ngày 7/5/2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi những người này.
Bài phỏng vấn thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo, đã "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được nhiều tờ báo chính thống ở Việt Nam đăng lên. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa.[8]
Trên mạng internet sau này đã lan truyền những câu thơ được cho là của Tố Hữu: "Lửa trường kỳ kháng chiến! / Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu / Thờ Mao chủ Tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt". Dựa vào những câu thơ này, họ tuyên bố rằng Tố Hữu là người độc ác, nhẫn tâm, thậm chí là sùng Tàu ("thờ Mao Chủ tịch"), sùng Liên Xô một cách mù quáng ("thờ Xít-ta-lin bất diệt") .
Thực ra, bài thơ "Bài ca tháng 10" sáng tác năm 1950 của Tố Hữu không hề có những câu thơ như vậy, bài thơ này kết thúc như sau: "Hoan hô Hồ Chí Minh / Cây hải đăng mặt biển / Bão táp chẳng rung rinh / Lửa trường kỳ kháng chiến!", toàn bộ những câu thơ sau dòng "Lửa trường kỳ kháng chiến" đều là xuyên tạc nhằm bôi nhọ Tố Hữu. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cũng nói rằng ông chưa từng gặp những câu thơ này trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc sau vài năm sáng tác ra các tác phẩm.[9]
Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến đường ở Hà Nội, nối từ ngã tư Khuất Duy Tiến - Lê Văn Lương đến ngã tư Vạn Phúc - Đại Mỗ - Thanh Bình.[11] Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, đường Tố Hữu là một con đường chính nối ngã tư chợ Ga Nam Lý đến đường Hữu Nghị đi qua bến xe Nam Lý. Tại Huế (Thừa Thiên Huế), đường Tố Hữu là một con đường lớn[12]. Bên cạnh đó, tên của ông còn được đặt cho một tuyến đường dài hơn 3 km trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm (Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh).[13]
Theo Quyết định số 1199/QĐ-UBND ngày 29 tháng 6 năm 2010 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Trường THPT Tố Hữu được thành lập trên cơ sở tách Trường THCS và THPT Tố Hữu.[14] Năm 2020, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 3289/QĐ-UBND ngày 24 tháng 11 năm 2020. Theo đó, Trường THPT Nam Giang được đổi tên thành Trường THPT Tố Hữu.[15]
Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên nhandan
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên nhandan.vn