Sông Nho Quế là một phụ lưu của sông Gâm. Sông bắt nguồn từ Trung Quốc có tên 南利河 Nán lì hé (sông Nam Lợi) hoặc 普梅河 Pǔ méi hé (sông Phổ Mai), khi chảy vào Việt Nam thì tạo ra một đoạn là biên giới Việt-Trung ở vùng cực bắc đất nước tại xã Lũng Cú và Má Lé, huyện Đồng Văn, sau đó chảy vào nội địa tỉnh Hà Giang [1].
Phần thượng lưu sông ở Trung Quốc bắt nguồn từ vùng núi Nghiễm Sơn 23°27′29″B 104°36′38″Đ / 23,458165°B 104,610663°Đ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, ở độ cao 1.500 m, chảy theo hướng đông sau đó là đông nam khi tới biên giới. Đoạn biên giới dài 16,4 km.
Vào đất Việt 23°23′04″B 105°17′06″Đ / 23,384392°B 105,285087°Đ tại xã Lũng Cú, sông đi qua các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, và đổ vào sông Gâm tại Nà Phòng 22°56′45″B 105°32′59″Đ / 22,94588°B 105,549757°Đ thuộc xã Lý Bôn, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng [2].
Sông dài 192 km, phần chảy ở Việt Nam dài 46 km. Diện tích lưu vực 6.052 km² (phần ở Việt Nam 2.010 km²), độ cao trung bình 1.255 m, độ dốc trung bình 18,7%. Sông chảy qua thung lũng dạng hẻm vực. Tổng lượng nước bình quân nhiều năm khoảng 2,69 km³, tương đương lưu lượng nước bình quân năm là 85 m³/s và môđun dòng chảy năm là 15,8 l/s/km².
Một phụ lưu là sông Nhiệm ở phía hữu ngạn, đổ vào Nho Quế tại ranh giới 3 xã Niêm Sơn (tỉnh Hà Giang), Đức Hạnh và Lý Bôn (tỉnh Cao Bằng).
Tại Việt Nam trên sông Nho Quế có 2 nhóm thủy điện với 5 nhà máy.
Nhóm Thủy điện Nho Quế với 3 bậc là [3][4]:
Nhóm Thủy điện Bảo Lâm có 2 công trình trên sông Nho Quế:
Tại Trung Quốc một đập thủy điện được xây dựng cách biên giới chừng 6 km, hồ nước nhìn thấy rõ trên Google Maps.
Do là sông vùng núi nơi các dân tộc thiểu số khác nhau cư trú, nên các đoạn sông có tên gọi khác nhau, và các nguồn tư liệu hiện cho ra những tên gọi sông này tại Trung Quốc khác nhau:
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sông Nho Quế. |