Sư đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
Hoạt động | 1971-1975 |
Quốc gia | Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Quân lực VNCH |
Quân chủng | Lục quân |
Phân loại | Bộ binh |
Bộ phận của | Quân đoàn I và Quân khu 1 Bộ Tổng Tham mưu |
Tên khác | -Sư đoàn Bến Hải -Sư đoàn Giới tuyến -Sư đoàn Trừng giới |
Khẩu hiệu | - Xây dựng - Chiến thắng - Bất tử[1] |
Tham chiến | Mùa hè đỏ lửa |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | -Vũ Văn Giai -Nguyễn Duy Hinh |
Sư đoàn 3 Bộ binh,[2] là một trong mười một Sư đoàn Bộ binh và cũng là đơn vị "con út" của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Là một trong ba đơn vị Chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1, tồn tại từ năm 1971 đến 1975, trách nhiệm bảo an khu vực địa đầu giới tuyến Việt Nam Cộng hòa. Sư đoàn 3 Bộ binh ban đầu đặt Bộ Tư lệnh tại Căn cứ Ái Tử, Quảng Trị. Năm 1972, trong trận mùa hè đỏ lửa Sư đoàn đã để mất Quảng Trị, phải lui về căn cứ Hòa Khánh[3], Đà Nẵng để bổ sung thêm quân và tái trang bị.
Đầu thập niên 1970, trước xu hướng quân Mỹ rút dần khỏi chiến trường Việt Nam, Quân đội miền Bắc ngày càng gia tăng áp lực mạnh mẽ trên địa bàn chiến trường B5 Bắc Quảng Trị. So sánh đơn thuần về binh lực, dù các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam yếu hơn Quân đội VNCH, nhưng lại có ưu điểm về thế chủ động và sẵn sàng hơn nhiều. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liên tục tổ chức các hoạt động tấn công mạnh từ phía bắc của vĩ tuyến 17 qua vùng phi quân sự bờ Nam sông Bến Hải thuộc vùng lãnh thổ do phía Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, thông qua đường mòn Hồ Chí Minh và đường 9 Nam Lào.
Nhờ các hoạt động tình báo mà phía Việt Nam Cộng hòa đã phát hiện sự chuẩn bị của đối phương. Các chỉ huy cao cấp đều dự đoán trước về cuộc tấn công mới còn dữ dội hơn năm 1968 của đối phương. Mặc dù vậy, các đơn vị chủ lực hiện có của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đều bị dàn mỏng lực lượng giữ đất, cộng với việc quá phụ thuộc lớn vào sự yểm trợ của quân Mỹ, nên việc Quân đội Hoa Kỳ rút quân đã tạo ra lỗ hổng ngày càng lớn cho hệ thống phòng thủ phía Bắc và phía Tây của Việt Nam Cộng hòa.
Trước tình hình đó, cuối năm 1971, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa quyết định thành lập thêm một Sư đoàn Bộ binh nữa tại Quân khu 1 để chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ với 2 đơn vị bạn là Sư đoàn 1 và Sư đoàn 2 Bộ binh. Ngày 01 tháng 10 năm 1971, Sư đoàn 3 Bộ binh được thành lập tại căn cứ Ái Tử (Quảng Trị)[4] trực thuộc Quân đoàn I, chịu trách nhiệm an ninh khu vực giới tuyến và toàn bộ địa bàn tỉnh Quảng Trị, được mệnh danh là "Sư đoàn Bến Hải". Việc thành lập đơn vị này làm Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mất uy tín với Mỹ.
Trừ Trung đoàn 2 là đơn vị chủ lực của Sư đoàn 1 chuyển qua, Sư đoàn được thành lập vội vã từ đơn vị tân lập với thành phần chủ yếu từ các quân nhân vi phạm kỷ luật như đi phép quá hạn, ba gai v.v... Hoặc bị báo cáo đào ngũ, ở quân lao ra được "phục hồi quân ngũ" (hồi ngũ). Vì vậy, Sư đoàn còn có hỗn danh là "Sư đoàn Giới tuyến" hoặc "Sư đoàn Trừng giới".
Sau khi thành lập không lâu, Sư đoàn phải bước vào tham chiến trong chiến dịch Xuân Hè 1972 trong tình trạng chưa huấn luyện hoàn chỉnh, sức chiến đấu yếu. Chỉ trong vòng 1 tháng, từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1972, Sư đoàn hầu như tan rã trước sức tấn công mãnh liệt của phía đối phương. Bộ chỉ huy rút toàn bộ về Đà Nẵng, Tư lệnh Sư đoàn là tướng Vũ Văn Giai cùng một số sĩ quan cao cấp bị bắt giam vì làm sụp đổ tuyến phòng thủ phía Bắc Quảng Trị.
Sau thất bại thảm hại, Sư đoàn lui về Đà Nẵng, đặt Bộ tư lệnh tại căn cứ Hoà Khánh và được tái tổ chức lại, chịu trách nhiệm an ninh khu vực các tỉnh Quảng Tín, Quảng Nam và Đặc khu Đà Nẵng (từ Quế Sơn, Quảng Tín đến Hải Vân, Đà Nẵng). Tướng Nguyễn Duy Hinh được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Sư đoàn được giao nhiệm vụ lấn chiếm lãnh thổ, tấn công và kiểm soát khu vực căn cứ West, đồi 1460 trước thời điểm hiệp định có hiệu lực, nhằm giành lợi thế kiểm soát lãnh thổ với phía Quân giải phóng.
Đầu năm 1975, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở chiến dịch Hồ Chí Minh, quyết tâm giành thắng lợi quân sự cuối cùng. Các đơn vị chủ lực của Việt Nam Cộng hòa tại Vùng I và Vùng II nhanh chóng tan rã và rút chạy về phía Nam. Sư đoàn được lệnh rút về phòng tuyến sông Thu Bồn làm nút chận cho quân bạn rút lui. Tuy nhiên phòng tuyến nhanh chóng tan vỡ. Sư đoàn tiếp tục rút về tuyến phòng thủ Phước Tuy và tan rã tại đây ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Stt | Đơn vị | Chú thích | Stt | Đơn vị | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Tác chiến Điện tử |
|||||
Tổng hành dinh |
|||||
Công binh chiến đấu |
|||||
(Quân xa) |
Các Tiểu đoàn: 30 (155 ly), 31,32,33 (105 ly). Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn | ||||
Hành chính Tài chính |
Thuộc "Lữ đoàn 1 Kỵ binh". Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn |
Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Chức vụ | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Võ khoa Nam Định[7] |
||||
Võ bị Đà Lạt K4 |
||||
Võ khoa Thủ Đức K3p |
Trung đoàn 2 |
|||
Võ bị Đà Lạt K16 |
Trung đoàn 56 |
Thay thế Trung tá Phạm Văn Đính[10] chỉ huy đầu tiên và là người đã vận động cả Trung đoàn 56 Bộ binh đầu hàng đối phương tại mặt trận Quảng Trị năm 1972. | ||
Trung đoàn 57 |
Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Chức vụ | Đơn vị | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ khoa Thủ Đức K3.[12] |
Trung đoàn |
||||
Võ bị Đà Lạt K13 |
|||||
Võ bị Đà Lạt K13 |
|||||
Võ khoa Thủ Đức K5 |
|||||
Võ bị Đà lạt K12 |
|||||
Võ bị Đà Lạt K13 |
Stt | Họ & Tên | Cấp bậc | Tại chức | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Võ bị Đà Lạt K10 |
Tư lệnh đầu tiên. Năm 1972 bị buộc vào tội để mất Quảng Trị, bị đưa ra Toà án Quân sự và bị xử 5 năm tù ở | |||
Võ khoa Thủ Đức K4 |
Nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn, Phụ trách Tư lệnh Sư đoàn trong thời gian chờ bổ nhiệm Tư lệnh chính thức | |||
Thiếu tướng (Tháng 7/1973) |
Tư lệnh cuối cùng |