Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
QUÂN ĐOÀN II Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
![]() Huy hiệu | |
Hoạt động | 1957–1975 |
Quốc gia | ![]() |
Phục vụ | ![]() |
Quân chủng | Hỗn hợp |
Phân loại | Chủ lực Quân khu |
Quy mô | Quân đoàn |
Bộ phận của | ![]() |
Bộ chỉ huy | Pleiku, Việt Nam Cộng hòa |
Khẩu hiệu | Thắng không kiêu – Bại không nản |
Tham chiến | Trận Mậu Thân Mùa hè đỏ lửa Chiến cuộc 1975 |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | Tôn Thất Đính Nguyễn Khánh Đỗ Cao Trí Nguyễn Hữu Có Vĩnh Lộc Lữ Lan Ngô Dzu Nguyễn Văn Toàn Phạm Văn Phú |
Huy hiệu | |
Kỳ hiệu | ![]() |
Quân đoàn II là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây là quân đoàn thành lập thứ nhì và là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian tồn tại của mình, Quân đoàn II có nhiệm vụ kiểm soát một vùng lãnh thổ có diện tích rộng lớn và địa hình phức tạp nhất so với 3 quân đoàn còn lại, gồm 7 tỉnh thuộc khu vực Cao nguyên Trung phần: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng; 5 tỉnh thuộc vùng duyên hải nam Trung phần: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Đặc khu Cam Ranh. Đặc biệt, vùng cao nguyên là đầu cầu của tuyến đường Trường Sơn, tuyến tiếp vận chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho những người Cộng sản miền Nam, vì vậy hầu hết trận đánh lớn giữa lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Mỹ và đồng minh diễn ra trên địa bàn của quân đoàn II. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Quân đội nhân dân và Quân Giải phóng nổ súng tấn công thị xã Ban Mê Thuột, mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên. Trước sức ép của đối phương, cùng với cuộc tháo chạy thảm họa trên đường số 7, chỉ trong 10 ngày, 75% lực lượng của Quân đoàn II hoàn toàn tan vỡ,[1] không còn thực sự hiện hữu như là một lực lượng chiến đấu tương xứng với quy mô của nó nữa.[2]
Tiền thân của Vùng II chiến thuật là Đệ tứ Quân khu, được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952[3], là một trong 4 Quân khu của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vùng kiểm soát của Đệ tứ Quân khu ban đầu chỉ tương ứng với phần cao nguyên Trung phần Việt Nam (nay là Tây nguyên). Năm 1954, địa bàn các Quân khu được điều chỉnh lại, trong đó Đệ tứ Quân khu được mở rộng thêm phần lãnh thổ Trung Việt kể từ ranh giới phía bắc tỉnh Quảng Ngãi trở xuống.[4]
Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được chia thành 6 Quân khu[5]. Địa bàn của Đệ tứ Quân khu cũ được tách thành 2 Quân khu mới là Đệ tam Quân khu (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên) và Đệ tứ Quân khu mới (gồm các tỉnh nam cao nguyên Trung phần và phía nam duyên hải Trung phần). Tư lệnh đầu tiên của Đệ tam Quân khu là Đại tá Đỗ Cao Trí và Tư lệnh đầu tiên của Đệ tứ Quân khu là Đại tá Trần Ngọc Tám.
Quân đoàn II được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1957 tại Thị xã Ban Mê Thuột, với nòng cốt ban đầu gồm Sư đoàn 14 và Sư đoàn 15 Khinh chiến, do Thiếu tướng Trần Ngọc Tám làm Tư lệnh đầu tiên. Địa bàn kiểm soát của Quân đoàn II bao gồm cả địa bàn của cả Đệ tam và Đệ tứ Quân khu.
Cuối năm 1961, các Quân khu được cải tổ thành các Vùng chiến thuật (trừ Quân khu Thủ đô đổi thành Biệt khu Thủ đô)[6]. Đệ tam và Đệ tứ Quân khu được sáp nhập và cải tổ thành Vùng 2 chiến thuật, từ đó có danh hiệu liên hợp Quân đoàn II và Vùng 2 chiến thuật. Địa bàn của Vùng 2 được tổ chức thành các khu chiến thuật: Khu 22 chiến thuật (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên) và Khu 23 chiến thuật (gồm các tỉnh Darlac, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận và Đặc khu Cam Ranh). Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, trực tiếp chỉ huy và điều động các đơn vị Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số từ một đến hai Trung đoàn bộ binh nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các Sư đoàn bộ binh. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn. Tháng 10 năm 1962, Bộ Tư lệnh Quân đoàn di chuyển lên Pleiku (Đặt sở Chỉ huy tại đây cho đến 1975). Sau, 2 tỉnh Kontum và Pleiku được đặt thuộc Biệt khu 24. Ngày 1 tháng 7 năm 1970, Vùng 2 chiến thuật được cải danh thành Quân khu 2.
Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, lực lượng quân Mỹ và đồng minh lần lượt rút khỏi Việt Nam. Viện trợ bị cắt giảm.
Trụ sở Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đặt tại Pleiku (Tháng 3/1975 chuyển về Nha Trang). Sau năm 1975 nơi này được trưng dụng thành trụ sở Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Gia Lai.
Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn II vào đầu năm 1975.
Bộ Tham mưu |
Phòng 2 Tình báo |
Sư đoàn 22 bộ binh: Trách nhiệm địa bàn các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên
|
Hải quân Vùng 2 Duyên hải |
Lữ đoàn 2 Kỵ binh |
Tiểu khu Kontum: Các Chi khu (Quận) Chương Nghĩa, Daksut, Dakto và Yếu khu Thị xã Kontum |
Stt | Họ và tên | Cấp bậc | Chức vụ | Phòng Sở | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ bị Đà Lạt K8[8] |
Tự sát ngày 29/4/1975 | ||||
Võ bị Địa phương Trung Việt Huế K1 |
Kiêm Phụ tá Hành quân cho Tư lệnh | ||||
Võ bị Đà Lạt K7 |
Lãnh thổ |
||||
Võ khoa Thủ Đức K4p |
|||||
Võ khoa Thủ Đức K3p[11] |
|||||
Võ khoa Nam Định[13] |
|||||
Võ bị Đà Lạt K10 |
|||||
Stt | Họ và tên | Cấp bậc | Chức vụ | Đơn vị | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ bị Đà Lạt K8 |
Pháo binh Quân đoàn[16] |
||||
Võ bị Đà Lạt K8 |
|||||
(Đại bác 175 ly) |
|||||
Võ khoa Thủ Đức K5 |
|||||
Stt | Họ và tên | Cấp bậc | Chức vụ | Đơn vị | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ khoa Thủ Đức K7 |
|||||
Võ khoa Thủ Đức K6 |
|||||
Võ bị Đà Lạt K18 |
|||||
Stt | Họ và tên | Cấp bậc | Chức vụ | Đơn vị | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ bị Đà Lạt K4 Lều Thọ Cường[18] Võ khoa Nam Định |
Đại tá |
Phó tư lệnh |
Bộ tư lệnh đặt tại Quy Nhơn, Bộ tư lệnh Tiền phương tại Kontum | ||
Võ bị Huế K2 Vũ Thế Quang[19] Võ bị Đà Lạt K4 |
Đại tá |
Phó tư lệnh |
Bộ tư lệnh đặt tại Ban Mê Thuột, Bộ Tư lệnh Tiền phương tại căn cứ Hàm Rồng, Pleiku | ||
Võ bị Đà Lạt K6 |
Tiểu khu trưởng |
Kontum[21] |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Kontum | ||
Võ bị Đà Lạt K10 |
Pleiku |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Pleiku | |||
Võ bị Đà lạt K8 |
Hậu Bổn |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Hậu Bổn (Cheo Reo) | |||
Võ khoa Thủ Đức K1 |
Ban Mê Thuột |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Ban Mê Thuột | |||
Võ bị Đà Lạt K10 |
Gia Nghĩa |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Gia Nghĩa | |||
Võ bị Đà Lạt K4 |
Đà Lạt[26] |
Trung tâm Hành chính Tỉnh, Thị và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Thị xã Đà Lạt. Năm 1967, Trung tâm Hành chính và Bộ chỉ huy Tiểu khu Tuyên Đức dời về xã Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng. | |||
Bảo Lộc |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Bảo Lộc | ||||
Võ bị Lục quân Pháp |
Quy Nhơn[28] |
Trung tâm Hành chính Tỉnh, Thị và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Thị xã Quy Nhơn | |||
Võ khoa Thủ Đức K1 |
Tuy Hòa |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Tuy Hòa | |||
Võ bị Huế K2 |
Nha Trang[31] |
Trung tâm Hành chính Tỉnh, Thị và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Thị xã Nha Trang | |||
Võ khoa Thủ Đức K4 |
Phan Thiết |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Phan Thiết | |||
Võ bị Đà Lạt K9 |
Phan Rang |
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Phan Rang | |||
Võ bị Đà Lạt K8 |
Đặc khu trưởng |
Cam Ranh Ba Ngòi[35] |
Trung tâm Hành chính Thị xã và Bộ chỉ huy Đặc khu đặt tại Ba Ngòi | ||
Võ khoa Nam Định[13] Phan Quang Phúc Võ bị Đà Lạt K5 |
Đại tá |
Phó tư lệnh |
|||
Võ khoa Thủ Đức K1 Lưu Đức Thanh Võ bị Không quân Marrakech |
Đại tá |
Phó tư lệnh |
|||
Hải quân Nha Trang K5 |
|||||
Võ khoa Thủ Đức K4p |
Quân khu 2[40] | ||||
Lương Chí[41] Võ bị Đà Lạt K10 |
Đại tá |
Phó tư lệnh |
Kỵ binh[42] |
Stt | Họ và tên | Cấp bậc tại nhiệm | Thời gian tại chức | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt |
(1956) Thiếu tướng (2/1958) |
Tư lệnh đầu tiên. Chức vụ sau cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan | ||
Võ bị Huế K1 |
(1958) |
Chức vụ sau cùng: Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ 1967-1973. | ||
Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà lạt |
(1960) Trung tướng (1963) |
Chức vụ sau cùng: Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa (1964) | ||
Võ bị Nước Ngọt Vũng Tàu |
(1963) |
Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tử nạn trực thăng năm 1971, được truy thăng Đại tướng | ||
Võ bị Huế K1 |
(1963) |
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng (1975) | ||
Võ bị Lục quân Pháp |
(1965) Trung tướng (1966) |
Chức vụ sau cùng: Tổng tham mưu trưởng (1975) | ||
Võ bị Đà Lạt K3 |
(1965) Trung tướng (1969) |
Chức vụ sau cùng: Chỉ huy trưởng Trường Cao đẳng Quốc phòng | ||
Võ bị Huế K2 |
(1964) Trung tướng (11/1970) |
Chức vụ sau cùng: Trưởng đoàn Việt Nam Cộng hòa tại Phái đoàn Quân sự 4 bên(1973-1974) | ||
Võ bị Đà Lạt K5 |
(1970) Trung tướng (3/1974) |
Chức vụ sau cùng: Chỉ huy trưởng Thiết giáp (1974-1975), kiêm Tư lệnh Quân đoàn III & Quân khu 3 (1975) | ||
(1971) |
Tư lệnh cuối cùng. Tự sát ngày 29 tháng 4 năm 1975. |