Sa giông mào Donau (danh pháp khoa học: Triturus dobrogicus) là một loài sa giông được tìm thấy tại miền trung và đông châu Âu, dọc theo lưu vực sông Danube (còn gọi là sông Donau), vài nhánh của nó và đồng bằng sông Dnepr. Nó nhỏ hơn và mảnh dẻ hơn so với các loài cùng chi Triturus, nhưng cũng như những loài này, con đực phát triển một mào da trên lưng và đuôi vào mùa sinh sản.
Trong nửa năm hoặc hơn, con trưởng thành sống ở các kênh chảy chậm, hồ, ao, nơi chúng sinh sản. Con cái đẻ chừng 200 trứng lên lá của các cây thủy sinh. Ấu trùng phát triển từ hai đến bốn tháng trước khi biến thái hoàn toàn. Phần còn lại của năm, loài này sống ở vùng đất bụi rậm, thường là rừng. Dù không được xem là bị đe dọa, những quần thể sa giông mào Donau đang suy giảm nhanh chóng, chủ yếu là do mất môi trường sống.
Nhưng quần thể bị cô lập tại châu thổ sông Danube và bồn địa Pannonia được mô tả như hai phân loài, T. dobrogicus dobrogicus và T. dobrogicus macrosoma, vào năm 2000.[5] Tuy nhiên, nghiên cứu di truyền sau đó không ủng hộ việc phân biệt hai dạng này.[6][7]:16
Với chiều dài toàn cơ thể chỉ 13 đến 15 xentimét (5,1 đến 5,9 in), sa giông mào Donau là loài sa giông mào nhỏ nhất. Cơ thể nó mảnh dẻ, thon hơn những loài khác, thích nghi tốt cho việc bơi lội, đầu hẹp và các chi tương đối ngắn. Dạng cơ thể này được tạo ra nhờ tăng số lượng đốt sống có xương sườn: mỗi cá thể có 16–17 xương, con số cao nhất cỡ các loài sa giông mào.[7]:10–14
^Jan Willem Arntzen, Sergius Kuzmin, Robert Jehle, Mathieu Denoël, Brandon Anthony, Claude Miaud, Wiesiek Babik, Milan Vogrin, David Tarkhnishvili, Vladimir Ishchenko, Natalia Ananjeva, Nikolai Orlov, Boris Tuniyev, Dan Cogalniceanu, Tibor Kovács, István Kiss (2008). “Triturus dobrogicus”. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2014.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Kiritzescu, C. (1903). “Contributions à la faune des batraciens de Roumanie”. Buletinul Societatii de Sciinte din Bucuresci, România (bằng tiếng Pháp). 12: 243–265.
^Wielstra, B.; Arntzen, J.W. (2011). “Unraveling the rapid radiation of crested newts (Triturus cristatus superspecies) using complete mitogenomic sequences”. BMC Evolutionary Biology. 11 (1): 162. doi:10.1186/1471-2148-11-162. ISSN1471-2148.
B. Thiesmeier, A. Kupfer: Der Kammmolch – Ein Wasserdrache in Gefahr. Beiheft 1 der Zeitschrift für Feldherpetologie, Laurenti-Verlag, 2000, 158 S., ISBN 3-933066-06-9
Jan Willem Arntzen, Sergius Kuzmin, Robert Jehle, Mathieu Denoël, Brandon Anthony, Claude Miaud, Wiesiek Babik, Milan Vogrin, David Tarkhnishvili, Vladimir Ishchenko, Natalia Ananjeva, Nikolai Orlov, Boris Tuniyev, Dan Cogalniceanu, Tibor Kovács, István Kiss (2009). “Triturus dobrogicus”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2009: e.T22216A9366668. doi:10.2305/IUCN.UK.2009.RLTS.T22216A9366668.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Seira J. Loyard (Kor. 세이라 J 로이아드) là một Quý tộc và là một trong tám Tộc Trưởng của Lukedonia. Cô là một trong những quý tộc của gia đình Frankenstein và là học sinh của trường trung học Ye Ran. Cô ấy cũng là thành viên của RK-5, người cuối cùng tham gia.