Saimin

Một tô mì Saimin

Saimin là loại bằng bột mì pha trứng được sáng chế tại Hawaii (Mỹ). Nó có nguồn gốc từ ramen của người Nhật, mì của người Hoa, và pancit của người Philippines, và được sáng chế vào thời đồn điền của Hawaii. Nó cũng là món canh được ăn nóng; canh này làm bằng dashi (bột bằng cá ngừ vằn hay tôm). Không như ramen, mì saimin có trứng và hay co lại khi nấu lên. Canh này được trộn hành lá, cải ngọt non (baby bok choy), kamaboko (một loại chả cá), xá xíu, thịt hộp (nhất là SPAM) hay linguiça (xúc xích thịt bò của Bồ Đào Nha), và nori (tảo biển kho), cũng như nhiều thành phần khác. Ngoài ra saimen còn có thể thêm gyoza (một bánh Nhật làm giống sủi cảo) và mì hoành thánh Trung Quốc vào những ngày lễ đặc biệt. Một món mì saimin xào, xuất phát từ pancit của Philippines, cũng được ăn nhiều, nhất là ở hội chợ và cỗ tiệc.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ saimin xuất từ tiếng Trung Quốc. Chữ (bính âm: ; Quảng Đông: sai; Hán-Việt: tế) có nghĩa là "nhỏ", và (miàn, mein, miến) có nghĩa là "mì", hợp lại là mì sợi nhỏ. Saimin là một trong những món truyền thống chính thức của tiểu bang Hawaii, do tính lịch sử và văn hóa của nó. Món này có tể xem như cuộc giao thoa của các chủng tộc phải chung đụng khi làm việc tại đồn điền míadứa vào đầu thế kỷ 20, trong đó có người Trung Quốc, Philippines, Nhật, Triều Tiên, Hawaii, và Bồ Đào Nha.

Ban chiều, những người làm việc tại đồn điền về gia đình ở những nhà nhỏ mướn ngay tại đồn điền, và mọi gia đình bắt đầu nấu bữa. Đôi khi đồ ăn được nấu chung để tiết kiệm. Mọi gia đình mang một thành phần còn dư. Thí dụ gia đình Philippines có thêm hành xanh mọc lên bên cạnh nhà; gia đình Bồ Đào Nha có xúc xích còn dư; những gà của gia đình thổ dân Hawaii đã đẻ thêm vài trứng; và gia đình Triều Tiên còn lại cải ngọt sau khi làm kim chi. Họ bỏ các thành phần vào nồi và ăn chung. Để cho mọi người hiểu nhau, họ mượn những từ và cách nói của nhau, trở thành tiếng lai Hawaii.

Món phổ biến

[sửa | sửa mã nguồn]

Người ta bắt đầu coi saimin là món ăn nhanh tại Sân vận động Honolulu tại góc đường King và Isenberg. Dân địa phương đến coi Babe Ruth, Joe DiMaggio, hay những đội bóng bầu dục của trường trung học tại sân vận động này, những người hâm mộ hay ghé vào quán ăn để mua một bao đậu lạc sôi và tô saimin nóng. Đây là lần đầu tiên mà một món ăn bán hơn hot doghamburger tại sân vận động.

Ngày nay, những nhà hàng như Palace Saimin được coi là "nơi địa phương thường tới" tại Hawaii. Chỉ ở Hawaii, saimin được bán tại các sân vận động bên cạnh hot dog và hamburger, tại những tiệm ăn nhanh như McDonald'sJack in the Box, và ngay cả tại những nhà hàng đắt tiền nhất ở quần đảo.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Fujimori, Leila (27 tháng 1 năm 2002). “Saimin shop co-founder created Kauai institution with hard work”. Honolulu Star-Bulletin (bằng tiếng Anh). Black Press. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  • Hormel Foods (2004). “Asian Noodles”. Our Kitchen (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2007.
  • Shimabukuro, Betty (5 tháng 9 năm 2001). “Gambling on a Good Meal”. Honolulu Star-Bulletin (bằng tiếng Anh). Black Press. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  • Tatsumoto, Kyle (2001). “Got Manapua?”. Nichi Bei Times. Keith Kamisugi. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp)
  • Masuda, Marnie (6 tháng 11 năm 2003). “Noodlemania: Hawaii's melting pot is a bowl of saimin”. Maui Time Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  • Enomoto, Catherine Kekoa (10 tháng 9 năm 1997). “The Shiromas scoop up hot bowls of noodles for one nostalgic weekend”. Honolulu Star-Bulletin. Black Press. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  • Galdera, Lyle (27 tháng 4 năm 2002). “Shige's Saimin Stand”. KHNL. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  • Clarke, Joan (1997). Local Food: What to Eat in Hawaii. Namkoong Publishing. ISBN 0964335913. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp)
  • Laudan, Rachel (1996). Food of Paradise: Exploring Hawaii's Culinary Heritage. University of Hawaii Press. ISBN 0824817788. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp)
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Thông tin nhân vật Oshino Shinobu - Monogatari Series
Thông tin nhân vật Oshino Shinobu - Monogatari Series
Oshino Shinobu (忍野 忍, Oshino Shinobu) là một bé ma cà rồng bí ẩn
[Phần 1] Nhật ký tình yêu chữa trĩ của tôi
[Phần 1] Nhật ký tình yêu chữa trĩ của tôi
Một câu truyện cười vl, nhưng đầy sự kute phô mai que
Sinh vật mà Sam đã chiến đấu trong đường hầm của Cirith Ungol kinh khủng hơn chúng ta nghĩ
Sinh vật mà Sam đã chiến đấu trong đường hầm của Cirith Ungol kinh khủng hơn chúng ta nghĩ
Shelob tức Mụ Nhện là đứa con cuối cùng của Ungoliant - thực thể đen tối từ thời hồng hoang. Mụ Nhện đã sống từ tận Kỷ Đệ Nhất và đã ăn thịt vô số Con Người, Tiên, Orc
Nhân vật Tenka Izumo - Mato Seihei no Slave
Nhân vật Tenka Izumo - Mato Seihei no Slave
Tenka Izumo (出いず雲も 天てん花か, Izumo Tenka) là Đội trưởng Đội Chống Quỷ Quân đoàn thứ 6 và là nhân vật phụ chính của bộ manga Mato Seihei no Slave.