Smendes III

Đối với những người có cùng tên gọi, xem SmendesSmendes II.
Nesibanebdjed (Smendes)
Bảng màu của một Đại tư tế tên Smendes, nhiều khả năng là của Smendes III
(Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan).
Đại tư tế của Amun
Tiền nhiệmIuwelot
Kế nhiệmNimlot C ?
Thông tin chung
Tên đầy đủ
Iuwelot
ns
O34
Z4
Y1
G29
nb
R11R11
Vương triềuVương triều thứ 22
Thân phụOsorkon I

Smendes III (Hy Lạp hóa từ tên Ai Cập là Nesibanebdjed III) là một Đại tư tế của Amun sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông đã kế vị người anh là Iuwelot và phục vụ dưới triều đại của vua anh Takelot I.

Thân thế

[sửa | sửa mã nguồn]

Smendes III là một vương tử, con trai của Pharaon Osorkon I[1]; không rõ mẹ của ông. Smendes là em (khác mẹ) với Đại tư tế Shoshenq C, Iuwelot và với cả Pharaon Takelot I. Do Shoshenq C sớm qua đời dưới thời trị vì của vua cha nên Iuwelot tập tước Đại tư tế kế vị người anh. Iuwelot tiếp tục công việc tư tế dưới thời vua anh Takelot I và đã mất trong khoảng thời gian này. Smendes III sau đó được đưa lên làm Đại tư tế tiếp theo.

Không rõ việc kế vị diễn ra sau khi Smendes III qua đời. Theo Kenneth Kitchen, Smendes III đã được Harsiese A, con trai của người anh Shoshenq C, lên kế vị chức Đại tư tế[2]. Giả thuyết này đã bị bác bỏ bởi Karl Jansen-Winkeln vì ông này đã chứng minh rằng, Harsiese A chưa bao giờ nhận mình là Đại tư tế[3]. Vì thế có thể Nimlot C, con trai của vua kế vị Osorkon II, tức cháu nội của vua Takelot I, mới là người tập tước Đại tư tế sau đó.

Chứng thực

[sửa | sửa mã nguồn]

Smendes III có rất ít chứng thực liên quan đến ông. Smendes chỉ được biết đến chủ yếu trên 3 bản khắc ghi chép mực nước sông Nin tại đền Karnak (được đánh thứ tự là 17, 18 và 19); tại đó, ông được gọi là "Đại tư tế của Amun, con trai của vua Osorkon"[4]. Bản khắc thứ 17 và 18 đánh dấu lần lượt năm trị vì thứ 8 và 14 của một vị vua, nhưng tên của vị vua đó lại không được nhắc đến; bản 19 thì đã bị mất năm trị vì, và cũng không rõ tên vua[4].

Dựa vào những bản phù điêu nói trên, ta chắc chắn rằng, Smendes III phải là một người con của vua Osorkon I. Trước đó, bản khắc thứ 16 có nhắc đến Đại tư tế Iuwelot nhưng cũng không rõ tên vua trị vì, nhưng vị vua đó đã được xác định chính là Takelot I[4]. Vì vậy, vị vua vô danh được nhắc trên bản khắc thứ 17, 18, 19 không ai khác ngoài Takelot I.

Để lý giải cho việc này, Gerard Broekman đưa ra giả thuyết rằng, sau cái chết của Osorkon I, đã có sự tranh đoạt quyền lực giữa Takelot I, con trai ông và Harsiese A, cháu nội của ông (con của Shoshenq C) ở Thượng Ai Cập[5]. Cả hai anh em Iuwelot và Smendes III đều không muốn tham gia vào cuộc tranh đoạt này và đã chọn cách không đề tên một vị vua nào lên các bản khắc để giữ thái độ trung lập[5].

Một bức tượng quỳ bằng đồng, hiện được trưng bày tại Bảo tàng Hoàng gia Mariemont (Morlanwelz, Bỉ), và một bảng màu đang được lưu giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan (số hiệu 47.123a–g), trên đó đều có khắc dòng chữ "Đại tư tế của Amun, Smendes". Tuy nhiên, vẫn chưa thể xác định được chủ nhân thật sự của chúng vì có đến 2 Đại tư tế đều tên Smendes (Smendes III đang được đề cập, và Smendes II thuộc Vương triều thứ 21).

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Aidan Dodson (2012), Afterglow of Empire: Egypt from the Fall of the New Kingdom to the Saite Renaissance, Nhà xuất bản Đại học Oxford, tr.96 ISBN 978-9774165313
  2. ^ Kenneth Kitchen (1996), The Third Intermediate Period in Egypt (1100–650 BC), Nhà xuất bản Aris & Phillips, §159 ISBN 978-0856682988
  3. ^ Karl Jansen-Winkeln (1995), "Historische Probleme Der 3. Zwischenzeit", Journal of Egyptian Archaeology 81, tr.129–149
  4. ^ a b c Robert Kriech Ritner (2009), The Libyan Anarchy: Inscriptions from Egypt's Third Intermediate Period, Nhà xuất bản Society of Biblical Lit, tr.35-36 ISBN 978-1589831742
  5. ^ a b Gerard Broekman (2002), "The Nile Level Records of the Twenty-Second and Twenty-Third Dynasties in Karnak", Journal of Egyptian Archaeology 88, tr.170–173
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2014) sẽ đem lại cho bạn cái nhìn chân thực, những mặt tối và hậu quả nặng nề đằng sau các cuộc chiến tranh mà nhân loại phải hứng chịu.
Review Smile - Kinh dị tốt, ý tưởng hay nhưng chưa thoát khỏi lối mòn
Review Smile - Kinh dị tốt, ý tưởng hay nhưng chưa thoát khỏi lối mòn
Smile là một bộ phim kinh dị tâm lý Mỹ năm 2022 do Parker Finn viết kịch bản và đạo diễn, dựa trên bộ phim ngắn năm 2020 Laura Has’t Slept của anh ấy
Teshima Aoi - Âm nhạc... sự bình yên vô tận (From Up on Poppy Hill)
Teshima Aoi - Âm nhạc... sự bình yên vô tận (From Up on Poppy Hill)
Khi những thanh âm đi xuyên qua, chạm đến cả những phần tâm hồn ẩn sâu nhất, đục đẽo những góc cạnh sần sùi, xấu xí, sắc nhọn thành
Hướng dẫn lấy thành tựu Liyue Ichiban - Genshin Impact
Hướng dẫn lấy thành tựu Liyue Ichiban - Genshin Impact
Hướng dẫn mọi người lấy thành tựu ẩn từ ủy thác "Hương vị quê nhà" của NPC Tang Wen