thái cổ phổ ngu Taego Bou / 태고보우 / 太古普愚 | |
---|---|
Thế danh | họ Hồng |
Pháp danh | Phổ Ngu (普愚) |
Pháp tự | Phổ Hư (普虛) |
Pháp hiệu | Thái Cổ (太古) |
Tôn xưng | Quốc sư Viên Chứng, Quốc sư Thái Cổ, Sơ tổ Hải Đông Cao Ly Quốc sư, Hải Đông Định Phái Đệ nhất Tổ Thái Cổ Phổ Ngu Hòa thượng |
Hoạt động tôn giáo | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Trường phái | Thiền tông |
Tông phái | Lâm Tế tông Tào Khê tông |
Sư phụ | Quảng Trí Trí Ấn Thạch Ốc Thanh Củng |
Đệ tử | Huyễn Am Cổn Tu Xán Anh Mộc Am Vô Học Tự Siêu |
Xuất gia | 1313 Cối Nham tự |
Tu tập tại | Ca Trí Sơn |
Sơ tổ Lâm Tế tông Triều Tiên | |
Tiền nhiệm | sáng lập |
Kế nhiệm | Huyễn Am Cổn Tu |
Khai tổ Tào Khê tông | |
Vị trí | Đồng sáng lập với Trí Nột |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | họ Hồng |
Ngày sinh | 23 tháng 10, 1301 |
Nơi sinh | Hongju, tỉnh Chungcheongnam-do (Hongseong, Chungcheongnam-do) |
Mất | |
Ngày mất | 20 tháng 1, 1382 |
Nơi mất | Tiểu Tuyết Sơn |
An nghỉ | Tháp Bảo Nguyệt Thăng Không |
Giới tính | nam |
Thân quyến | |
Hồng Diên (홍연) | |
Trịnh Thị (정씨) | |
Nghề nghiệp | tỷ-khưu, nhà thơ |
Quốc tịch | Cao Ly |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Thái Cổ Phổ Ngu (ko. 태고보우 Taego Bou, zh. 太古普愚, ngày 23 tháng 10 năm 1301 – ngày 20 tháng 1 năm 1382) là một vị Thiền sư nổi danh của Phật giáo Triều Tiên. Cùng với Thiền sư Bạch Vân Cảnh Nhàn và Thiền sư Lãn Ông Huệ Cần, sư là người đầu tiên đem yếu chỉ và dòng truyền thừa của Lâm Tế tông vào Cao Ly. Bên cạnh đó, sư cũng được coi là đồng sáng lập của tông Tào Khê, người sáng lập ban đầu của tông này là Thiền sư Trí Nột. Phương pháp mà sư truyền bá mang đậm đặc trưng của Khán Thoại Thiền do Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo đề xướng ở Trung Quốc vào thế kỷ 12.
Sư họ Hồng, sinh ngày 21 tháng 9 năm Tân sửu (23/10/1301 theo Dương lịch), tức là năm thứ 27 đời Cao Ly Trung Liệt Vương, tại Hongju, tỉnh Chungcheongnam-do (nay là Hongseong, Chungcheongnam-do). Cha sư tên Hồng Diên (ko. 홍연, zh. 洪延), mẹ là Trịnh Thị (ko. 정씨, zh. 鄭氏).[1]
Đến năm 12 tuổi, sư xuất gia tại chùa Cối Nham (ko. 회암사, zh. 檜巖寺) với Thiền sư Quảng Trí Trí Ấn (ko. 광지지인, zh. 廣智智印, 1102-1158). Sư bắt đầu tu Thiền vào năm 18 tuổi trên núi Ca Trí (zh. 迦智山) và được thầy giao cho câu thoại "Muôn pháp về một, một về chổ nào?" (萬法歸一 一歸何處) để tham cứu.[1][2]
Năm 25 tuổi, sư thi đỗ kỳ thi Kinh Hoa Nghiêm của triều đình. Trong thời gian này, sư vừa hành tham thoại đầu vừa học các kinh luận Phật giáo.[3]
Tuy nhiên sau đó vì thấy được điểm hạn chế của việc học kinh điển, sư dừng việc học kinh và chú tâm hoàn toàn vào việc tu Thiền. Sau bảy ngày chuyên tâm thực hành, sư khai ngộ lần đầu tại Cam Lộ Tự vào năm 1333. Một hôm, khi đọc Kinh Viên Giác tới câu "Nếu tất cả mọi thứ biến mất, không có gì rời đi", sư lại có tỉnh ngộ.[2]
Năm 1334, sư tham cứu công án Vô. Sư trở về quê nhà và tiếp tục nỗ lực tham công án này. Nhân đọc tập sách về 1700 công án của Thiền Tông, sư thấu triệt mối nghi tình mà mình đã tham cứu suốt 20 năm và được đại ngộ triệt để.[2]
Sau khi đạt đạo, sư hành cước đến Trung Quốc vào năm 45 tuổi. Một năm sau sư gặp được vị Thiền sư nổi tiếng của tông Lâm Tế là Thạch Ốc Thanh Củng (zh. Shiyu Qinggong). Qua trắc nghiệm, sư được Thiền sư Thanh Củng ấn khả và tiếp nhận mạch truyền thừa của tông Lâm Tế vào Hải Đông.[2] Sư vừa kế thừa truyền thừa của phái Ca Trí Sơn thuộc Cửu Sơn Thiền Môn, vừa kế thừa và truyền bá tông Lâm Tế sang Cao Ly.[3]
Sau khi thuyết pháp theo yêu cầu của vua nhà Nguyên, sư trở lại Cao Ly vào năm 1348 và trở thành một vị Thiền sư nổi danh, từng được mời làm Vương sư và Quốc sư.[2]
Sư nổi danh với việc hợp nhất của 9 trường phái Thiền bản địa (Cửu Sơn Thiền Môn) thành Tào Khê tông tại Quảng Minh Tự (ko. 광명사, zh. 廣明寺) và góp phần giải quyết các vấn đề bất đồng, mâu thuẫn đã có từ trước giữa trong các tông phái Phật giáo Cao Ly.[2]
Sau sư đến trụ trì và hoằng hóa tại Trùng Hưng Tự ở Tam Giác Sơn và cất một cái am để ẩn cư ở phía Đông của ngôi chùa, và gọi tên là Thái Cổ. Tại đây sư viết tập Ca Nhất Thiên (ko. Kailp'yŏn, zh. 歌一篇) và sau đó là Sơn Trung Tự Lạc Ca (ko. Sanjungjallakka, zh. 山中自樂歌).[4]
Vào ngày 17 tháng 12 năm Nhâm Tuất (20/01/1382 Dương lịch), sư an nhiên thị tịch tại Tiểu Tuyết Sơn, thọ 82 tuổi, pháp lạp 69 năm, tháp hiệu Bảo Nguyệt Thăng Không. Bài kệ thị tịch là:
Sư có hơn 1000 đệ tử, nổi danh nhất là các vị Thiền sư như: Huyễn Am Cổn Tu (ko. Hwanam Honsu, 1320-1392), Xán Anh Mộc Am (ko. 찬영목암, 1328-1390), Vô Học Tự Siêu (ko. 무학자초, 1327-1405).[1]
Các tác phẩm do sư để lại bao gồm:[1]