Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA.
Trong khi tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại hiếm khi được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày và được sử dụng ở các mức độ khác nhau trong các tình huống trang trọng như thuyết pháp tôn giáo, sách, báo, truyền thông chính phủ, quảng bá tin tức hoặc nói chuyện chính trị, Darija là ngôn ngữ nói đại chúng tại Ma-rốc và chiếm ưu thế trong giải trí truyền hình, điện ảnh và quảng cáo thương mại.
Tiếng Ả Rập HassaniyaSahrawi được nói ở vùng Tây Sahara đang tranh chấp, bị Maroc chiếm đóng thường được coi là một phương ngữ tiếng Ả Rập nói riêng rẽ với một số từ vựng Amazigh (Berber).
Tiếng Ả Rập Maroc có nhiều phương ngữ khu vực và giọng nói. Phương ngữ chính của nó là phương ngữ được sử dụng ở Casablanca, Rabat và Fes và do đó nó chiếm ưu thế trong phương tiện truyền thông và lấn át các phương ngữ khu vực khác như phương ngữ được nói ở Tangier và Oujda.
Nó được sử dụng như ngôn ngữ đầu tiên bởi khoảng 50% đến 75% dân số Maroc. Nửa còn lại nói một trong những ngôn ngữ Tamazight. Những người nói tiếng Tamazight Maroc có học thức có thể giao tiếp bằng tiếng Ả Rập Maroc chính thống.
Tiếng Ả Rập Ma-rốc được hình thành từ một số phương ngữ của tiếng Ả Rập thuộc hai nhóm khác nhau về mặt phả hệ: phương ngữ tiền Hilalia và Hilalia.[2][3][4]
Phương ngữ tiền Hilalia là kết quả của các giai đoạn Ả Rập hóa sớm của Maghreb, từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 12, liên quan đến các khu định cư đô thị chính, bến cảng, trung tâm tôn giáo (zaouias) cũng như các tuyến thương mại chính. Các phương ngữ thường được phân loại theo ba loại: (cũ) đô thị, "làng" và "núi" định cư và phương ngữ Do Thái.[3][5]
Phương ngữ miền núi ở miền nam và miền tây Rif có thể được phân loại thành hai phân khu: phương ngữ miền bắc (được nói bởi các bộ lạc Masmouda và Ghomara) và phương ngữ miền Nam (được nói bởi các bộ lạc của Zenata và Sanhaja).[8]
Các phương ngữ ít di động ("làng") ở Zerhoun và Sefrou và các bộ lạc lân cận của họ (bộ lạc Zerahna; Kechtala, Behalil và Yazgha), tàn dư của các phương ngữ tiền Hilalia được sử dụng rộng rãi trước thế kỷ 12.
Judeo-Ma-rốc gần như biến mất nhưng với một nền văn học còn sót lại.
Hilalia hay Bedouin là phương ngữ được đưa đến đến Ma-rốc sau sự định cư của một số bộ lạc Hilalin và Mâqilia ở miền tây Ma-rốc do vua BerberAlmohadYaqub Mansur mang đến.
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Moroccan Arabic”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
^A. Bernard & P. Moussard, « Arabophones et Amazighophones au Maroc », Annales de Géographie, no.183 (1924), pp.267-282.
Dominique Caubet, tiếng Ả Rập Ma-rốc, trong: Bách khoa toàn thư về ngôn ngữ và ngôn ngữ Ả Rập vol.3, Brill, 2007, pp. 274 Từ287
Moscoso García, Francisco, Esbozo ngữ pháp del árabe marroquí, Đại học de Castilla La Mancha, 2004.
Olivier Durand, L'arabo del Marocco.Elementi di dialetto tiêu chuẩn e mediano, Università degli Studi La Sapienza, Rome, 2004.
Richard S. Harrel, Một ngữ pháp tham khảo ngắn của tiếng Ả Rập Ma-rốc, Georgetown Univ. Báo chí, 1962.
Richard S. Harrel, Từ điển tiếng Ả Rập Ma-rốc, Georgetown Univ. Báo chí, 1966.
Jeffrey Heath, Ablaut và sự mơ hồ: Âm vị học của một phương ngữ Ả Rập Ma-rốc, Đại học bang. của báo chí New York, 1987.
Angela Daiana Langone, Khbar Bladna, une expérience Journalistique en arabe phương ngữ marocain, in: Estudios de Dialectologia Norteafricana y Andalusi no.7, 2003, pp. 143 thuật151.
Angela Daiana Langone, Jeux linguistiques et nouveau style dans la masrahiyya en-Neqsha, Le déclic, écrite en dialecte marocain par Tayyeb Saddiqi, in: Actes mô 6, Tunis, 2006, pp. 243 con261.
Abderrahim Youssi, La triglossie dans la typologie linguistique, trong: La Linguistique no.19, 1983, pp. 71 kho83.
Abderrahim Youssi, Grammaire et lexique de l'arabe marocain Moderne, Wallada, 1994.
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .
Dáng vẻ bốn tay của anh ấy cộng thêm hai cái miệng điều đó với người giống như dị tật bẩm sinh nhưng với một chú thuật sư như Sukuna lại là điều khiến anh ấy trở thành chú thuật sư mạnh nhất