U-19 (tàu ngầm Đức) (1935)

Tàu ngầm chị em U-9, một chiếc Type IIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-19
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935
Xưởng đóng tàu
Số hiệu xưởng đóng tàu 549
Đặt lườn 20 tháng 7, 1935
Hạ thủy 21 tháng 12, 1935
Nhập biên chế 16 tháng 1, 1936
Tình trạng Bị đánh chìm ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ, 11 tháng 9, 1944[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIB
Trọng tải choán nước
  • 279 t (275 tấn Anh) (nổi)
  • 328 t (323 tấn Anh) (chìm)
  • 414 t (407 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 42,7 m (140 ft 1 in) (chung)
  • 28,2 m (92 ft 6 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.100 hải lý (5.700 km; 3.600 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) (nổi)
  • 35–43 hải lý (65–80 km; 40–49 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 150 m (490 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 23 036
Chỉ huy:
Chiến dịch:
  • 20 chuyến tuần tra:
  • 1: 25 tháng 8 – 15 tháng 9, 1939
  • 2: 27 tháng 9 – 1 tháng 10 & 4 – 5 tháng 10, 1939
  • 3: 14 – 18 tháng 10 & 19 – 20 tháng 10 & 6 – 7 tháng 11, 1939
  • 4: 14 – 20 tháng 11, 1939
  • 5: 4 – 12 tháng 1, 1940
  • 6: 18 – 28 tháng 1, 1940
  • 7: 12 – 26 tháng 2, 1940
  • 8: 14 – 23 tháng 3, 1940
  • 9: 3 – 23 tháng 4, 1940
  • 10: 21 tháng 1 – 19 tháng 2, 1943
  • 11: 17 – 30 tháng 3, 1943
  • 12: 14 tháng 4 – 4 tháng 5, 1943
  • 13: 10 – 11 tháng 6 & 16 tháng 6 – 7 tháng 7 & 8 – 10 tháng 7, 1943
  • 14: 25 tháng 7 – 16 tháng 8 & 18 – 24 tháng 8, 1943
  • 15: 11 tháng 11 – 2 tháng 12, 1943
  • 16: 22 tháng 12, 1943 – 19 tháng 1, 1944
  • 17: 10 tháng 2 – 7 tháng 3, 1944
  • 18: 10 tháng 4 – 6 tháng 5, 1944
  • 19: 6 – 8 tháng 6, 1944
  • 20: 25 tháng 8 – 7 tháng 9 & 7 – 10 tháng 9, 1944
Chiến thắng:
  • 14 tàu buôn bị đánh chìm
    (35.430 GRT)
  • 1 tàu chiến bị đánh chìm
    (441 tấn)

U-19 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-19 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó hoạt động tuần tra tại Bắc Hải trước khi quay lại vai trỏ huấn luyện, rồi chuyển sang hoạt động cùng Chi hạm đội U-boat 30 tại Hắc Hải. U-19 đã thực hiện tổng cộng 20 chuyến tuần tra, đánh chìm 14 tàu buôn với tổng tải trọng 35.430 tấn và một tàu chiến 441 tấn[3] trước khi bị đánh đắm ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 11 tháng 9, 1944.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[4] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[4] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[4] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[4]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[4]

U-19 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[2] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Germaniawerft tại Kiel vào ngày 20 tháng 7, 1935,[2] hạ thủy vào ngày 21 tháng 12, 1935,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 16 tháng 1, 1936[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Viktor Schütze.[2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

U-19 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được chín chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh. Trong các chuyến tuần tra thứ nhất, thứ hai và thứ ba từ 25 tháng 8 đến 7 tháng 11, 1939, nó hoạt động tại Bắc Hải, rải thủy lôi đánh chìm được ba tàu buôn. Trong hai chuyến tiếp theo từ 14 tháng 11, 1939 đến 12 tháng 1, 1940, nó đánh chìm thêm hai tàu buôn, rồi thêm hai chiếc nữa trong chuyến thứ sáu vào ngày 23 tháng 1. Một tàu hộ tống Anh đã thả mìn sâu tấn công nó vào ngày 21 tháng 2 ngoài khơi đảo Nam Ronaldsay thuộc quần đảo Orkney, khiến nó bị hư hại nhẹ.[2] Chiếc tàu ngầm đánh chìm thêm bốn tàu buôn nữa trong chuyến tuần tra thứ tám vào các ngày 19 tháng 320 tháng 3.[2]

Vào ngày 1 tháng 5, 1940, U-19 được rút khỏi nhiệm vụ tác chiến để quay trở lại vai trò huấn luyện. Khi được điều động sang Chi hạm đội U-boat 30 vào ngày 1 tháng 5, 1942, chiếc tàu ngầm được tháo dỡ, vận chuyển dọc theo sông Danube đến cảng Galați của România. Tại đây nó được lắp ráp lại tại Xưởng tàu Galați và gửi đến Hắc Hải.[5] U-19 đi đến cảng Constanța của România vào ngày 21 tháng 1, 1943, nơi đặt căn cứ cho đến hết quãng đời hoạt động,[6] và thực hiện thêm 11 chuyến tuần tra chiến tranh tại khu vực Hắc Hải.[2]

Vào ngày 13 tháng 2, 1943, U-19 bị bốn máy bay tấn công ngoài khơi Gelendzhik, thả hai quả mìn sâu, và gây ra những hư hại nhẹ.[2] Nó đánh chìm tàu buôn Liên Xô Barzha vào ngày 27 tháng 6, 1944, và tàu quét mìn Liên Xô BTSC-410 Vzryv (số 25) vào ngày 2 tháng 9, 1944.

Sau khi România chuyển sang gia nhập Khối Đồng Minh, U-19 bị mất căn cứ hoạt động, và không thể quay trở về Đức vì các eo biển BosphorusDardanelles do Thổ Nhĩ Kỳ trung lập kiểm soát. Để tránh bị lọt vào tay lực lượng Liên Xô, nó cùng các tàu ngầm chị em U-20U-23 được lệnh tự đánh đắm tàu tại vùng biển Hắc Hải về phía Bắc Zonguldak, Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 10 tháng 9, 1944, tại tọa độ 41°34′B 31°50′Đ / 41,567°B 31,833°Đ / 41.567; 31.833.[7][8][9][2]

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-19 đã đánh chìm 14 tàu buôn đối phương tải trọng 35.430 gross register tons (GRT) cùng một tàu chiến tải trọng 441 tấn:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[3]
21 tháng 10, 1939 Capitaine Edmond Laborie  Pháp 3.087 Bị đánh chìm (mìn)
21 tháng 10, 1939 Deodata  Na Uy 3.295 Bị đánh chìm (mìn)
24 tháng 10, 1939 Konstantinos Hadjiperas  Hy Lạp 5.962 Bị đánh chìm (mìn)
18 tháng 11, 1939 Carica Milica  Yugoslavia 6.371 Bị đánh chìm (mìn)
9 tháng 1, 1940 Manx  Na Uy 1.343 Bị đánh chìm
23 tháng 1, 1940 Battanglia  Anh Quốc 1.523 Bị đánh chìm
23 tháng 1, 1940 Pluto  Đan Mạch 1.598 Bị đánh chìm
25 tháng 1, 1940 Everene  Latvia 4.434 Bị đánh chìm
25 tháng 1, 1940 Gudveig  Đan Mạch 1.300 Bị đánh chìm
19 tháng 3, 1940 Charkow  Đan Mạch 1.026 Bị đánh chìm
19 tháng 3, 1940 Minsk  Đan Mạch 1.229 Bị đánh chìm
20 tháng 3, 1940 Bothal  Đan Mạch 2.109 Bị đánh chìm
20 tháng 3, 1940 Viking  Đan Mạch 1.153 Bị đánh chìm
27 tháng 6, 1944 Barzha  Liên Xô 1.000 Bị đánh chìm
2 tháng 9, 1944 BTSC-410 Vzryv (số 25)  Hải quân Liên Xô 441 Bị đánh chìm

Tái khám phá

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 3 tháng 2, 2008, báo The Telegraph thông tin U-20 được Kỹ sư hàng hải người Thổ Nhĩ Kỳ Selçuk Kolay phát hiện tại độ sâu 80 ft (24 m) ngoài khơi thành phố Zonguldak của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Kolay, ông nắm được tọa độ xác tàu đắm của U-19U-23, bị đánh chìm ở độ sâu sâu hơn gần U-20.[8][9]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kemp 1997, tr. 217.
  2. ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type IIB U-boat U-19”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-19”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  5. ^ Paterson 2016, tr. 5.
  6. ^ Jones, Moira (1995). The Times Atlas of the World . Bartholomew. tr. 21. ISBN 978-0723008095.
  7. ^ Kemp 1999, tr. 217.
  8. ^ a b Copping, Jasper (3 tháng 2 năm 2008). “Adolf Hitler's 'lost fleet' found in Black Sea”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ a b McSmith, Andy (11 tháng 2 năm 2008). “Hitler's 'lost fleet' of U-boats found in Black Sea”. The Independent. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Paterson, Lawrence (2016). “5 - The Black Sea: War in the South 1942-43”. Steel and Ice: The U-boat Battle in the Arctic and Black Sea 1941-45. Naval Press Institute. ISBN 978-1591142584.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type IIB boat U-19”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  • Hofmann, Markus. “U 19”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Lịch Sử fun facts: cái tên Ivan của người Nga!
Lịch Sử fun facts: cái tên Ivan của người Nga!
Gần như ai cũng biết, khi nói về 1 người Nga bất kỳ ta mặc định anh ta là Ivan
[Hải Phòng] Cùng thư giãn tại Time Coffee Núi Đèo
[Hải Phòng] Cùng thư giãn tại Time Coffee Núi Đèo
Không gian tại quán là một lựa chọn lí tưởng với những người có tâm hồn nhẹ nhàng yên bình
Chân dung Drew Gilpin Faust - Hiệu trưởng Đại học Harvard
Chân dung Drew Gilpin Faust - Hiệu trưởng Đại học Harvard
Đó là những lời khẳng định đanh thép, chắc chắn và đầy quyền lực của người phụ nữ đang gánh trên vai ngôi trường đại học hàng đầu thế giới
Spoiler Volume 19 LN: Rimuru nuốt chửng Michael
Spoiler Volume 19 LN: Rimuru nuốt chửng Michael
Rimuru đang dự hội nghị ở Ingrasia thì nghe tin chỗ Dagruel có biến nên xách theo Souei và Diablo chạy đến