Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-140 |
Đặt hàng | 25 tháng 9, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Deutsche Werke, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 269 |
Đặt lườn | 16 tháng 11, 1939 |
Hạ thủy | 28 tháng 6, 1940 |
Nhập biên chế | 7 tháng 8, 1940 |
Số phận | Bị đánh chìm tại Wilhelmshaven, 5 tháng 5, 1945 [1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm duyên hải Type IID |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài |
|
Sườn ngang |
|
Chiều cao | 8,40 m (27 ft 7 in) |
Mớn nước | 3,93 m (12 ft 11 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 80 m (260 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 3 sĩ quan, 22 thủy thủ |
Vũ khí |
|
Lịch sử phục vụ | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 05 988 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-140 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IID được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên chúng hầu như chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, U-140 đã thực hiện ba chuyến tuần tra tại Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh, đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng 12.410 gross register tons (GRT); và sau đó đánh chìm một tàu ngầm Liên Xô 206 tấn trong biển Baltic.[2] U-140 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến hết chiến tranh, và cuối cùng bị đánh đắm tại Wilhelmshaven trong kế hoạch Regenbogen vào tháng 5, 1945.
Phân lớp Type IID là một phiên bản mở rộng của Type IIC dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 314 t (309 tấn Anh) khi nổi và 364 t (358 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[3] Chúng có chiều dài chung 43,97 m (144 ft 3 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 29,80 m (97 ft 9 in), mạn tàu rộng 4,92 m (16 ft 2 in), chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in) và mớn nước 3,93 m (12 ft 11 in).[3]
Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[3] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12,7 kn (23,5 km/h) trên mặt nước và 7,4 kn (13,7 km/h) khi lặn,[3] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[3]
Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[3]
U-140 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 9, 1939.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 16 tháng 11, 1939,[1] hạ thủy vào ngày 28 tháng 6, 1940,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 7 tháng 8, 1940[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hans-Peter Hinsch.[1]
Trong thành phần Chi hạm đội U-boat, U-140 thực hiện chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh khi xuất phát từ Kiel vào ngày 20 tháng 11, 1940.[4] Nó đi đến Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo Faroe và Shetland để tiến vào khu vực Đại Tây Dương về phía Tây Scotland và Ireland. Ở phía Bắc Ireland, U-140 lần lượt đánh chìm chiếc Victoria City của Anh vào ngày 3 tháng 12;[2] rồi năm ngày sau đó nó lại đánh chìm chiếc tàu buồm Phần Lan Penang, khiến toàn bộ 18 thủy thủ thiệt mạng, và cùng ngày hôm đó lại đánh chìm thêm chiếc Ashcrest.[2] Nó kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Bergen, Na Uy vào ngày 17 tháng 12.[4]
U-140 khởi hành từ Gotenhafen (nay là Gdynia, Ba Lan) vào ngày 19 tháng 6, 1941 cho chuyến tuần tra thứ hai trong khu vực biển Baltic, trong bối cảnh cuộc xung đột với Liên Xô sắp bắt đầu. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Gotenhafen vào ngày 30 tháng 6.[4]
Trong chuyến tuần tra cuối cùng từ ngày 7 đến ngày 24 tháng 7 trong khu vực biển Baltic, xuất phát và kết thúc tại Gotehafen,[4] U-140 đã đánh chìm tàu ngầm Liên Xô M-94 vào ngày 21 tháng 7.[2]
U-140 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện từ tháng 8, 1941 cho đến khi chiến tranh kết thúc. Vào giai đoạn kết thúc xung đột, theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-140 bị đánh đắm tại âu tàu Raeder ở Wilhelmshaven vào ngày 5 tháng 5, 1945 để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.[1] Xác tàu đắm được trục vớt và tháo dỡ sau chiến tranh.[1]
U-140 đã đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng 12.410 gross register tons (GRT) củng một tàu ngầm tải trọng 206 tấn:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[2] |
---|---|---|---|---|
2 tháng 12, 1940 | Victoria City | United Kingdom | 4.739 | Bị đánh chìm |
8 tháng 12, 1940 | Penang | Finland | 2.019 | Bị đánh chìm |
8 tháng 12, 1940 | Ashcrest | United Kingdom | 5.652 | Bị đánh chìm |
21 tháng 7, 1941 | M-94 | Hải quân Liên Xô | 206 | Bị đánh chìm |